| 
 |  
 
                                          Những cây 'nêm nếm' có tác dụng chữa bệnh  
  
 15. Cây riềng
Riềng còn gọi là cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galanga có tên khoa học là Alpinia officinarum Hance. 
 
Đây  là loài thân thảo cao 0,7-1,2m. Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ,  Cụm hoa riềng sít nhau, mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá  bắc hình mo, một màu xanh, một màu trắng. 
  
   
 
Củ  riềng nên đào vào khoảng tháng 7-10. Thân rễ có khoảng 0,1-1% tinh dầu  mà thành phần chủ yếu là cineol và metylcinnamit. Ngoài ra còn có chất  dầu vị cay là galangol và các dẫn chất của flavon ở dạng tinh thể như:  galangin, alpinin và kaempferin. 
   Ở nước ta, riềng được dùng như một loại cây gia vị ăn kèm với các món  thịt hấp, xào, luộc, nướng... mang lại mùi thơm nồng ấm cho món ăn.
 Riềng có  vị cay thơm, tính ấm có tác dụng lợi tiêu hóa, giảm đau, chống lạnh  thường được dùng trị: đau thượng vị, nôn mửa, tiêu hóa kém, loét dạ dày  và tá tràng, đau dạ dày mạn tính, viêm dạ dày - ruột cấp, sốt rét. Riềng  dùng ngoài trị lang ben.
 Một số đơn thuốc có dùng riềng để chữa bệnh:
 1. Đau  thượng vị, loét tá tràng, đau dạ dày mãn tính: dùng riềng, hương phụ mỗi  vị 60g, tán nhỏ thành bột luyện thành viên, ngày dùng 9g, chia làm 3  lần.
 2. Nôn  mửa: riềng, bán hạ, gừng, mỗi vị 10g, sắc nước uống. Nếu nôn mửa có đau  bụng, dùng 8g riềng với 1 quả táo sắc nước uống 2-3 lần trong ngày.
 3. Sốt  rét, kém tiêu hóa: riềng tẩm dầu vừng sao 40g. Gừng khô nướng 40g tán  nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, dùng uống ngày 15-20  viên.
 4. Lang ben: riềng giã nát ngâm rượu hoặc giấm bôi lên.
 
  
15. Cây riềng 
   
Riềng còn gọi là cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galanga có tên khoa học là Alpinia officinarum Hance. 
 
Đây  là loài thân thảo cao 0,7-1,2m. Thân rễ mọc bò ngang, dài, hình trụ,  Cụm hoa riềng sít nhau, mặt trong màu trắng, mép hơi mỏng, kèm hai lá  bắc hình mo, một màu xanh, một màu trắng. 
  
   
 
Củ  riềng nên đào vào khoảng tháng 7-10. Thân rễ có khoảng 0,1-1% tinh dầu  mà thành phần chủ yếu là cineol và metylcinnamit. Ngoài ra còn có chất  dầu vị cay là galangol và các dẫn chất của flavon ở dạng tinh thể như:  galangin, alpinin và kaempferin. 
 
  Ở nước ta, riềng được dùng như một loại cây gia vị ăn kèm với các món  thịt hấp, xào, luộc, nướng... mang lại mùi thơm nồng ấm cho món ăn. 
  Riềng có vị cay thơm, tính ấm có tác dụng lợi tiêu hóa, giảm đau, chống  lạnh thường được dùng trị: đau thượng vị, nôn mửa, tiêu hóa kém, loét  dạ dày và tá tràng, đau dạ dày mạn tính, viêm dạ dày - ruột cấp, sốt  rét. Riềng dùng ngoài trị lang ben. 
 Một số đơn thuốc có dùng riềng để chữa bệnh: 
  1. Đau thượng vị, loét tá tràng, đau dạ dày mãn tính: dùng riềng, hương  phụ mỗi vị 60g, tán nhỏ thành bột luyện thành viên, ngày dùng 9g, chia  làm 3 lần. 
  2. Nôn mửa: riềng, bán hạ, gừng, mỗi vị 10g, sắc nước uống. Nếu nôn mửa  có đau bụng, dùng 8g riềng với 1 quả táo sắc nước uống 2-3 lần trong  ngày. 
  3. Sốt rét, kém tiêu hóa: riềng tẩm dầu vừng sao 40g. Gừng khô nướng  40g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên bằng hạt ngô, dùng uống  ngày 15-20 viên. 
 4. Lang ben: riềng giã nát ngâm rượu hoặc giấm bôi lên. 
    
 
16. Đinh lăng 
 Trong dân gian, đinh lăng còn được gọi là cây gỏi cá, tên khoa học là polyscias fruticosa harms thuộc họ ngũ gia bì. 
 
Rễ  đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng thông huyết mạch.  Lá đinh lăng có vị chua và bùi, có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị  ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ… Lá cây phơi khô nấu lên có mùi thơm đặc  trưng được dùng để chống dị ứng mẩn ngứa, bồi bổ cho sản phụ, người già,  người bệnh đau mới dậy. 
  
   
 
Lá  đinh lăng khi kết hợp với những nguyên liệu khác sẽ cho ra nhiều món  ngon hấp dẫn. Chẳng hạn món cháo lá đinh lăng non nấu tim heo, canh đinh  lăng thịt nạc bằm cho thêm mướp có mùi thơm như thuốc bắc, đinh lăng  kho cá trắm, cá điêu hồng, cá lóc. Ở một số vùng ở nước ta, lá cây này  được dùng như một loại rau quen thuộc ăn ghém với cá, bánh xèo, bánh  tráng phơi sương kẹp với lá đinh lăng, thịt heo, chà bông chấm mắm  nêm... 
 
 Không  chỉ là cây cảnh thông dụng, đinh lăng còn là một vị thuốc nam có tính  năng chống dị ứng, giải độc thức ăn, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo  dai của cơ thể. 
    
 
 17. Cần tây 
   
Cần tây là loại rau gia vị rất tốt cho người huyết áp cao và béo phì. 
 
Chất  hóa học tự nhiên apigenin có trong cần tây giúp trị cao huyết áp và làm  hạ cholesterol, ngăn ngừa các bệnh về tim mạch, thiếu máu, tăng khả  năng miễn dịch cho cơ thể. 
  
   
 
Đối  với phụ nữ, loại gia vị này giúp điều hòa kinh nguyệt, tăng khả năng  thụ thai và đặc biệt có thể là trợ thủ đắc lực của chị em trong giảm cân  nặng. Dùng nước ép rau cần tây dùng súc miệng hàng ngày có thể chữa  được lở loét miệng, viêm họng và khản tiếng. 
 
 Ăn cần tây với cháo nóng hoặc ăn sống, nấu canh, xào…là món ăn được nhiều người ưa thích, ngoài ra còn giúp trị chứng cảm cúm. 
    
 
18. Húng quế 
 Húng quế còn gọi là húng giổi hay é tía, có tên khoa học Ocimum basilicum L, thuộc chi Ocimum. 
 
Đây  là loài cây thân thảo, cao 50-60cm, là cây gia vị có mùi thơm đặc biệt.  Lá húng đơn, mọc đối, màu lục, hơi khía răng ở mép. Hoa nhỏ màu trắng  hay hơi tía, mọc thành chùm đơn. Quả chứa hạt đen bóng, khi ngâm vào  nước có chất nhầy màu trắng bao quanh. 
  
   
 
Lá  húng quế có vị cay, tính nóng, mùi thơm dịu, có tác dụng kích thích sự  hấp thụ, làm ra mồ hôi, lợi tiểu, lương huyết, giảm đau nên được sử dụng  làm gia vị. Hoa có tính chất lợi tiểu, bổ thần kinh. Quả có vị ngọt và  cay, tính mát; kích thích thị lực. 
  Ngoài ra, cành và lá húng quế còn được dùng trị: sổ mũi, đau đầu, đau  dạ dày, đầy bụng, kém tiêu hoá, viêm ruột, tiêu chảy, kinh nguyệt không  đều... 
  Húng quế có mùi thơm đặc trưng giúp tăng hương vị nên được dùng ăn với  các món nước như phở, hủ tiếu, bún riêu hoặc các món cuốn như bánh xèo,  gỏi cuốn... 
 Ngoan Ngoan   
 
 
 
    | 
 |