Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Chủ đề: TỘI LỖI (TRÌNH BÀY VỀ TỘI CHO NGƯỜI HÔM NAY)

  1. #1
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default TỘI LỖI (TRÌNH BÀY VỀ TỘI CHO NGƯỜI HÔM NAY)


    Nguyên tác: Xavier Theùvenot, ‘Les peùcheùs, que peut-on en dire?’ eùd. Salvator 1983
    Imprimatur: Paris 4.5.1981 do P. Faynel, v.e.
    - Nhóm Tủ sách Chuyên Đề dịch -

    Những trang sau đây là kết quả ghi lại từ bốn bài thuyết trình tại trung tâm Jean-Bart trong niên khoá 1980-1981. Vì thế, chúng phần nào vẫn giữ thể văn nói của những bài thuyết trình, và mục đích của chúng tôi khi ghi lại chỉ là để phổ biến cho quảng đại quần chúng.
    Dĩ nhiên trong một số trang quá ít như thế này không thể đề cập hết các vấn đề do thần học về tội đặt ra. Vì thế, tập sách này chỉ muốn giới thiệu một cách đặt vấn đề mới, nêu ra một vài điểm vững chắc để làm mốc. Nhưng cũng mời gọi độc giả phải suy tư thêm. Ước mong tập sách này sẽ giúp độc giả khám phá thêm đôi chút chân lý này: ‘Đức Giêsu đã xuất hiện để xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không hề có tội lỗi’ (1Ga 3,5)
    MỤC LỤC
    Chương 1:
    THẦN HỌC VỀ TỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
    1. Vài lưu ý trước
    2. Ý thức về tội đã biến chuyển thế nào và do đâu?

    Chương 2:
    TỘI NGUYÊN TỔ
    Một tội điển hình: tội của Ađam và Eva
    1. Vài lưu ý đầu về St 3
    2. Vài dữ kiện phổ biến của phân tâm học về sự sinh thành của con người
    3. Đọc bài tường thuật của trường phái Giavítta về sự sáng tạo: St 2,4b – 3,24
    4. Bài tường thuật của trưoờng phái Giavítta về sự quá phạm: St 2,25 – 3,19
    5. Tổng kết: vài hệ luận rút ra từ việc giải thích St 2 – 3 trên đây
    6. Cuối cùng, phai hiểu tội nguyên tổ như thế nào?

    Chương 3:
    QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO VỀ TỘI
    1. Vài suy nghĩ về ý thức tội
    2. Tội: một ý niệm thần học
    3. Những dấu hiệu cho biết ta có tội – Sự hàm hồ của những dấu hiệu đó


    Tác giả: Xavier Thévenot
    thay đổi nội dung bởi: toliem1510, 31-03-2011 lúc 04:50 PM
    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  2. Có 2 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


  3. #2
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG I: THẦN HỌC VỀ TỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

    CHƯƠNG I: THẦN HỌC VỀ TỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

    Hiện nay không còn gì lạ nữa khi bảo rằng các Kitô hữu cảm thấy rất khó chịu đối với vấn đề tội. Biết bao lần ta nghe nói: ‘Tội à? Tôi không biết tội là gì’. Hay nói cho cùng, tôi công nhận mình là người tội lỗi, nhưng kê khai các tội của mình thì tôi không thể nào làm được!’
    Trong chương này, tôi muốn suy nghĩ về một vài lý do sâu xa đã khiến cho con người ngày nay cảm thấy lúng túng khi nghe nói tới tội hay khi cố gắng tìm ra chiều kích tội trong cuộc đời mình. Nhưng để thấy rõ khó khăn và tầm quan trọng trong việc suy tư này, tôi xin lưu ý trước hai điều:

    I. VÀI LƯU Ý TRƯỚC

    1. Suy nghĩ về tội không để ta yên
    Có ai suy nghĩ về tội mà vẫn cảm thấy ‘bình chân như vại’? Chỉ cần xem tội lỗi đã được sử dụng làm đề tài quảng cáo nhiều như thế nào là đủ hiểu: ‘hút thuốc là có tội’; ‘quán cà phê này có hương vị tội lỗi’, v.v…Tại sao người ta lại ưa dùng tội để quảng cáo nhiều như thế? Bởi vì tội là một ý niệm đưa ta về với những thực tại rất xa xưa của thời thơ ấu, cũng như với những thực tại cốt yếu của tuổi trưởng thành. Bạn thử mời một anh chị em trong một lớp giáo lý hay trong một nhóm Công giáo tiến hành kể ra, càng ít suy nghĩ càng tốt, những từ có liên quan đến tội. Thường thường, ban đầu mọi người đều im lặng vì bỗng dưng ai cũng bị trả về với những chuyện mà chẳng ai muốn nói ra. Nhưng khi phần nào đã hết lo ngại, ta sẽ nghe họ kể ra đủ các từ thuộc loại này: luật lệ, xét xử, khoái lạc, tính dục, lỗi lầm, chết chóc, cấm đoán, giận dữ, vi phạm… loạt từ này cho thấy không bao giờ người ta nghĩ về tội và khả năng có tội một cách hoàn toàn vô tư. Nhưng những suy nghĩ ấy luôn luôn cuốn hút ta, vì chúng làm ta nghĩ tới một quy luật sống mà ta đã tự rèn cho mình, với những khoái lạc và cấm đoán. Chúng nhắc ta nhớ đến mình đã từng đón nhận hay từ khước những lệnh cấm của cha mẹ như thế nào, và hiện nay mình có còn đón nhận quyền bính dưới mọi hình thức nữa hay không. Ý niệm tội lỗi cũng làm ta nghĩ tới tự do của mình, những lo âu và khát vọng thầm kín mà ta không muốn bộc lộ ra. Cuối cùng, ý niệm tội lỗi bắt ta phải xét lại có thật mình đã trưởng thành về mặt tâm lý chưa. Tóm lại, nói đến tội lỗi ta thường nghĩ đến thái độ của mình với hai thực tại quan trọng nhất trong cuộc sống, đó là tính dục theo nghĩa rộng và bạo lực hay sự gây hấn. Và có thể kể thêm: cái chết.
    Các nhà quảng cáo đã hiểu như thế, khi khêu gợi tội lỗi để bán chạy các sản phẩm. Tội lỗi không phải là một luật cấm bị vi phạm, mà còn thường được coi như cách thể hiện sự thoả mãn mà ta đã từng được hứa hẹn: ‘Bạn có thể được hưởng thụ nhiều hơn nữa đấy!’ Để làm chứng, tôi xin trích vắn tắt một đoạn trong tác phẩm ‘César’ của Pagnol, kể lại cuộc đối thoại giữa Honoré và César. Honoré nói: ‘Quả thật, tôi đã phạm tội ấy, và kinh khủng hơn, tôi đã phạm tội ấy một cách khoái trá!’ César đáp lại: ‘Tất nhiên! Nếu khi phạm tội mà cảm thấy đau khổ thì hẳn tất cả chúng ta đã làm thánh!’ Thật vậy, tội làm ta nhớ đến những cuộc săn tìm khoái lạc của mình. Người phạm tội không thể không tự hỏi: nhân danh cái gì mà bắt ta phải hoãn lại các sự thoả mãn của mình; nhân danh điều chi mà khi thực hiện những điều thoả mãn ấy ta lại gọi chúng là tội? Thiên Chúa chẳng lẽ là người cản trở không cho ta hưởng thụ và sống tự do sao? Khi suy nghĩ về tội, chúng ta nghiệm thấy sâu xa đó chính là những câu hỏi mình phải trả lời.

    2. Tội là một chủ đề rất quan trọng trong Kitô giáo.
    Tội là một thực tại trung tâm của Kinh thánh và Truyền thống Hội thánh.
    Trung tâm trước hết vì Kinh thánh ám chỉ rất rõ ràng và quan trọng về tội. Chẳng hạn, chỉ nguyên trong Tân ước cũng có không dưới 171 lần dùng chữ amartia với nghĩa là tội. Và không phải chỉ có từ ngữ này. Còn có các từ Hy lạp khác như anomia (bất chính), asebeia (vô đạo), adikia (bất công) và parabasis (vi phạm). Khi đọc các từ ấy, ta thấy hầu như luôn luôn để chỉ tội, trong Tân ước.
    Tội cũng là một ý niệm trung tâm vì nó đóng một vai trò quan trọng trong mầu nhiệm cứu độ. Mạc khải của Đức Giêsu Kitô cũng chủ yếu là cho biết về tội. Hãy đọc các công thức đầu tiên dùng để loan báo đức tin mà tiếng chuyên môn gọi là kêrygma. Ta sẽ luôn luôn thấy trong đó có ám chỉ trực tiếp về tội. Chẳng hạn câu 1Cr 15,3 – một trong những công thức xưa nhất của kêrygma: ‘Đức Kitô chết vì tội lỗi chúng ta, theo lời Kinh thánh’. Chữ tội lỗi cũng được nhắc đến mỗi khi cử hành lễ Tạ ơn: chính lúc truyền phép rượu, linh mục đọc lại những lời của Đức Giêsu: ‘Đây là máu Ta đổ ra cho anh em được tha tội’. Sau cùng, để thấy hết tầm quan trọng của chủ đề tội, ta hãy nhớ lại lời của Gioan (1Ga 1,8-10): ‘Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, thì chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta…Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối’. Một lời cảnh cáo khá nặng!
    Đã là trung tâm của Mạc khải, tội cũng phải chiếm phần quan trọng trong suy tư thần học. Khi cầm một tài liệu giáo lý hay một bản văn của Huấn quyền, nhà thần học hay giáo viên giáo lý nên tự đặt cho mình những câu hỏi sau: trong tài liệu này tội đóng một vai trò gì? chiếm vị trí nào? có công dụng gì về mặt ý thức hệ? Thật vậy, khi đọc các tài liệu với những câu hỏi ấy, ta sẽ ngạc nhiên vì khám phá thấy tội đóng rất nhiều vai trò khác nhau. Sách giáo lý hay phụng vụ của chúng ta sẽ có chất lượng hơn, nếu người ta hiểu rõ chủ đề tội đóng vai trò gì trong các lời nói của giáo lý viên hay của chủ tế. Chẳng hạn trong các nghi thức sám hối, đôi khi người ta nại đến tội để chỉ trích sự điều hành, hay để trả lại cho linh mục chủ sự tất cả quyền hành, hoặc để củng cố thêm sự đoàn kết của cộng đoàn Kitô hữu v.v… Tóm lại, chủ đề tội bao giờ cũng được dùng đến để phục vụ cho một ý thức hệ nào đó. Chính vì thế, cần phải quay về với suy tư thần học để tránh sai lạc. Muốn vậy, trước hết hãy trình bày sự biến chuyển trong ý thức về tội ngày nay.

    II. Ý THỨC VỀ TỘI ĐÃ BIẾN CHUYỂN THẾ NÀO VÀ DO ĐÂU?

    A. Biến chuyển thế nào?
    Biến chuyển trên vài bình diện:
    Trước hết trên bình diện đời sống riêng tư. Tất cả chúng ta đều nghe phát biểu đại loại như sau? ‘Khi đi xưng tội, tôi không còn tìm ra tội để xưng nữa’. Nói cách khác, bảng kê khai tội đã trở thành lỗi thời đối với con người ngày nay. Ngay cả trong các nghi thức sám hối có chuẩn bị kỹ lưỡng, các Kitô hữu cũng thường cảm thấy các bài xét mình chẳng khác gì một cuộc ‘nạo vét’ lương tâm, càng ngày càng trở nên khó chấp nhận.
    Trên bình diện ngữ vựng cũng có sự biến chuyển đáng kể. Quả thế, ngày nay mấy ai dùng chữ tội nguy tử (‘péché mortel’)? Hầu như chẳng còn ai! Khi Toà thánh dùng kiểu nói đó trong văn kiện ‘persona humana’ đề cập đến đạo đức học tính dục, báo chí đã làm rùm beng! Dẫu vậy, phải chăng trong kiểu nói đó không có gì cần giữ lại, nhất là khi thánh Gioan đã chẳng ngại ngùng nói tới những tội có thể đưa tới chỗ chết và thánh Phaolô đã dám gọi một số tội là những tội loại ta ra khỏi Nước Trời? Như thế, tại sao chúng ta sợ tìm hiểu vấn đề cái chết gắn liền với tội? Đây ít ra cũng là một vấn đề cần làm sáng tỏ.
    Cuối cùng, còn một sự biến chuyển sâu rộng ngay trong khái niệm về tội. Để hiểu rõ sự biến chuyển này hơn, tôi sẽ mô tả hơi nôm na một chút về tội ngày xưa và ngày nay. Sau đó ta sẽ thấy mình sẽ khởi sự suy tư từ đâu.

    a/ Ngày xưa: Khái niệm về tội rất hàm súc trong đời sống chúng ta. Nó được đặt liên quan với toà án. Vì thế, khi nghĩ đến tội người ta thường nhắc tới Chúa là vị thẩm phán, những hình phạt của Chúa. Người ta rất nhấn mạnh tới sự sợ hãi, đến nỗi J. Delumeau, giáo sư Học viện Pháp, dám nói về một ‘khoa mục vụ của sự sợ hãi’. Hơn nữa, các Kitô hữu được mời gọi hãy xưng thú toàn bộ tội lỗi. Cha giải tội nào cũng thường nhắn nhủ ‘con hãy xưng hết’.
    Từ một quan niệm súc tích và nặng pháp lý về tội như thế, ngày nay người ta chuyển sang một quan niệm chắc chắn đã chịu ảnh hưởng của những mối quan hệ biết lắng nghe, chứ không ra lệnh và chỉ thị. Tôi muốn nói rằng dần dần người ta đã nhìn tội trong một tương quan thương yêu tương trợ. Thay vì lợi dụng sự sợ hãi, người ta gợi dậy lòng tin tưởng. Tuy nhiên, xin đóng ngoặc thử hỏi sự giấu diếm khía cạnh sợ hãi trong cuộc sống như vậy có ích gì không. Đừng quên rằng sự sợ hãi không phải chỉ có giá trị tiêu cực. Trái lại, sợ hãi có thể làm người ta chú ý và cố gắng hơn. Vì thế, tôi e ngại rằng loại bỏ mọi sự sợ hãi trong khi giảng dạy và huấn giáo như thế cũng là loại bỏ một chiều kích căn bản của con người. Đây là một vấn đề căn bản cần để tâm suy nghĩ! Dầu sao, ngày nay thay vì gây sợ hãi người ta tìm cách tạo tin tưởng; thay vì đòi xưng thú hết người ta bảo chỉ cần xưng những điều quan trọng. Thế nhưng, rất tiếc chính hối nhân không phải lúc nào cũng biết đâu là điều quan trọng.
    b/ Ngày xưa ta thường quan niệm về tội một cách rất sự vật (hay nhìn tội trong chính nó). Như người ta thường khai thác chủ đề tượng trưng sau đây: tội là một vết nhơ, làm nhơ bẩn, hay thậm chí làm lây lan. Cứ nhớ lại hồi nhỏ ta thường nghe nói ‘linh hồn bị tội làm cho đen đúa dơ bẩn’ và việc xưng tội thường được gọi một cách bình dân là ‘tẩy rửa’ linh hồn. Ngày nay người ta bỏ hình ảnh vết nhơ tượng trưng đó (chẳng biết như thế có hoàn toàn hợp lý không?) và hầu như chỉ nhìn tội trong tương quan của nó. Tội không còn là một vết nhơ nữa, mà là một sự xúc phạm đến người khác. Cũng chính vì thế, thay vì gọi xưng tội là tẩy rửa, người ta thích nói tới sự hoà giải hơn. Các giáo lý viên ngày nay không còn bảo học sinh của mình là ‘hãy đi tẩy rửa linh hồn’.
    c/ Ngày xưa ta hay nhìn tội theo một quan niệm nặng tính cá nhân hơn. Tội trọng - nghĩa là những tội duy nhất đáng gọi là nguy tử - thường là những tội thuộc phạm vi tính dục và riêng tư. Nếu nói cho cùng, có vài cha giải tội dám cho rằng không đi lễ ngày chúa nhật là đã phạm tội chết được. Đang khi các tội nặng khác như giết người, cướp của… dường như chỉ ít Kitô hữu vi phạm. Theo quan niệm đó tính dục là đề tài lạm phát nhất ở các toà giải tội.
    Ngược với cái nhìn tập trung vào cá nhân như thế, ngày nay người ta có quan niệm nặng tính tập thể hơn về tội, thậm chí phải nói là quá nặng tính tập thể. Quả vậy, tội tập thể, nghĩa là tội của hết mọi người, đôi khi đồng nghĩa với không là tội của ai hết. Ngoài ra, tội nặng ngày nay không còn phải là tội trong phạm vi tính dục, mà là tội của cá nhân chủ nghĩa và cầu an thụ động. Chỉ cần nhìn lại các nghi lễ sám hối mùa Chay, ta sẽ thấy tội nặng bị tố giác nhiều nhất chính là tội quy luỵ chiều theo những sự việc tất định giả tạo của xã hội mà cá nhân phải chấp nhận. Tội nặng ngày nay là tội từ khước không chịu tham gia vào quá trình biến đổi lịch sử như Chúa yêu cầu chúng ta. Tới mức có thể nói sự rối loạn được nói tới nhiều nhất hiện nay không phải là sự rối loạn trong đời sống tình cảm mà là sự rối loạn trong sinh hoạt chính trị, kinh tế và xã hội.
    d/ Ngày xưa người ta thường có quan niệm vụ luật về tội. Bằng chứng là trong sách giáo lý nước Pháp năm 1941 ta còn thấy định nghĩa ‘tội là một sự cố tình bất tuân lề luật của Chúa. Ta phạm tội là vì biết điều này bị cấm mà vẫn cứ làm’. Còn ngày nay, người ta quan niệm về tội một cách huyền nhiệm hơn: tội là khước từ đáp lại tiếng gọi của Đức Kitô. Vì thế, ngày nay người ta rất ít nói đến luật, kể cả ‘luật của Đức Kitô’, trong khi đây chính là thành ngữ rất quen thuộc của thánh Phaolô.
    e/ Thật lạ lùng: quan niệm về tội một cách vụ luật như ngày xưa lại thường hay đi đôi với quan niệm lấy Thiên Chúa làm trọng tâm. Quả thế, trong sách giáo lý người ta ưa khai triển ý tưởng tội là gây buồn phiền cho Thiên Chúa. Tội đụng đến Thiên Chúa, và lý do tiên quyết khiến ta phải trốn tránh tội là vì khi phạm tội ta xúc phạm tới vinh quang của Thiên Chúa. Bởi đó từ quan niệm về tội một cách vụ luật người ta đã đi tới quan niệm nhìn tội với Chúa là trọng tâm.
    Còn ngày nay, thật là ngược đời: khi nhìn tội một cách huyền nhiệm (tội là từ khước tiếng gọi của Đức Kitô), người ta lại triển khai thái quá quan điểm đặt con người làm trọng tâm. Tội trước tiên là xúc phạm đến người khác. Thậm chí có giáo dân đã thắc mắc không biết cuối cùng Thiên Chúa có còn chỗ đứng nào trong ý niệm về tội ngày nay nữa không.
    Trên đây là một vài nét lớn tôi xin mạn phép dùng để mô tả nguệch ngoạc sự chuyển biến trong ý thức về tội của mấy thập niên gần đây. Bây giờ ta thử tìm hiểu những nguyên nhân gây ra tình trạng đó.

    B. Một vài nguyên nhân gây ra sự chuyển biến đó

    1. Ảnh hưởng của các Khoa học, nhất là các Khoa học nhân văn

    a/ Các thuyết Mácxít:
    Để tiện trình bày, tôi xin xếp các thuyết Mácxít vào số các Khoa học nhân văn, dù các nhà tư tưởng hiện nay có thể không đồng ý. Điều quan trọng ta cần ghi nhớ là tư tưởng của Marx và các người kế tục sự nghiệp của ông đã ảnh hưởng sâu đậm lên não trạng của dân chúng tại Pháp và từ đó cũng ảnh hưởng lên quan niệm của họ về tội. Theo các chuyên viên Mácxít, luân lý mà các Kitô hữu hay đưa vào để nói về tội không hề là luân lý ‘từ trời ban xuống’. Vì theo họ, luân lý nào – tức là toàn bộ các giới luật mà con người phải chấp hành – cũng là sản phẩm ý thức hệ của một hạ tầng kinh tế nào đó. Chính vì có một hạ tầng kinh tế này mà nền luân lý này đã chi phối thế hệ đó. Chẳng hạn nền luân lý của xã hội Pháp hiện nay là để phục vụ cho một chủ nghĩa tư bản nào đó. Thế nhưng, đang khi đó luân lý Kitô giáo (cũng theo lời các nhà Mácxít) lại có đặc điểm là tự cho rằng mình chỉ bắt nguồn từ lời Chúa, mình là sản phẩm trực tiếp của Tin mừng. Ngược lại thì đúng hơn, nền luân lý ấy thường được đặt ra là để phục vụ giai cấp tư bản thống trị… Chỉ cần đọc lại vài văn kiện của các giám mục trong quá khứ, chỉ cần xem lại một số bài giáo lý về tư hữu hay về chủ nghĩa xã hội, ta sẽ thấy luân lý Kitô giáo cũng thường được sử dụng như một ý thức hệ phục vụ cho một giai cấp nào đó. Bởi vậy, người ta đâm ra hoài nghi khi thấy chủ đề tội được khai triển dựa vào một nền luân lý nhất định.
    Hơn thế nữa, cũng theo lời một số nhà Mácxít, nói đến tội khiến ta cứ duy trì nguyên vẹn các cơ chế kinh tế làm vong thân con người. Tại sao vậy? Vì khi khai thác về chủ đề tội, ta sẽ bị giới hạn chỉ xét lại hạnh kiểm trong lương tâm của cá nhân mỗi người thôi. Nói đến tội, ta sẽ có khuynh hướng chỉ nhìn các thực tại dưới khía cạnh kín đáo riêng tư của chúng. Khi nhìn thấy lương tâm xấu xa của mình trước mặt Chúa và bổn phận hoán cải tâm hồn mình, ta sẽ bị cám dỗ tránh xét lại các nguyên nhân thật sự đã đưa tới tình trạng vong thân ấy, những nguyên nhân đến từ xã hội. Tới mức chính ý niệm về tội đã tạo điều kiện cho ta cam chịu sự bóc lột của người khác. Bằng chứng là người Kitô hữu thường loay hoay xét mình với hai đề tài lớn là không phục tùng quyền bính và thiếu trong sạch về mặt tính dục.
    Thánh Phaolô đã chẳng viết ‘mỗi người hãy phục tùng nhà đương quyền vì không có quyền bính nào là không bởi Chúa’ (Roma 13,1) hay sao? Nếu tách câu nói này ra khỏi mạch văn của nó, ta sẽ không khỏi làm các nhà Mácxít phải giận điên lên, vì đó chẳng khác nào cổ võ mọi người cam lòng chấp nhận mọi sự rối ren sẵn có và phục tùng mọi chính quyền, kể cả những chính quyền độc tài nhất.
    Các Kitô hữu cũng luôn luôn nhạy cảm với các tội trong lãnh vực tính dục. Đó không phải là thái độ quá chú ý đến mình và cổ võ việc chấp nhận áp lực của xã hội trên cá nhân sao? Quả thế, có một sự liên hệ mật thiết giữa cách ta sống bản năng tính dục và cách ta chấp nhận các quyền bính. Để độc giả hiểu rõ hơn, tôi xin giới thiệu một câu nói chơi chữ: ‘Khi chính quyền nói hãy để người ấy phát biểu (s’exprimer), thì cũng biểu là hãy đặt tính dục lên trên hết (sexe primer)’. Thật vậy, ở đâu chính quyền mạnh (dù là trong Giáo hội hay xã hội, dù là thiên hữu hay thiên tả), ta cũng đều thấy có sự hạn chế các khoái lạc thân xác. Mọi thân xác đều bị đối xử chung một khuôn một phép. Không phải là vô tình mà một khi ý niệm về tội thay đổi thì trong Giáo hội quyền tự do ngôn luận và kèm theo đó có thái độ khác với thân xác, cũng khá hơn. Tội lỗi và khoái lạc liên hệ với nhau chặt chẽ, đến nỗi khi nào xã hội biết khám phá lại giá trị của khoái lạc, lúc ấy ý niệm về tội mới thực sự thay đổi.
    Dĩ nhiên đứng trước những sự xét lại đó, các Kitô hữu không phải lúc nào cũng cảm thấy thoải mái dễ chịu. Họ thường có phản ứng ngược lại là nhấn mạnh, đôi khi thái quá, tới tội tập thể và tỏ ra hoài nghi không biết có tội cá nhân không… Nếu vậy, mỗi người chúng ta phải tự kiểm tra xem mình đang có phản ứng nào trước những lời phê bình của các nhà Mácxít.

    b/ Các trào lưu phân tâm học.
    Ở đây ta không thể nghiên cứu sâu xa những phê bình của các khoa phân tâm về ý niệm tội, mà chỉ nêu ra vài đóng góp của các trào lưu đó.
    Trước hết, theo các đồ đệ của Freud, cách ứng xử nào cũng đều thành hình do có một sự thoả hiệp nào đó giữa một bên là hoàn cảnh bên ngoài và một bên là những đòi hỏi của vô thức. Vì thế, có thể coi cách ứng xử của một người là những triệu chứng mà ta cần tìm cho ra ý nghĩa tiềm ẩn của chúng. Chẳng hạn thủ dâm, loạn luân đồng giới, xung đột vợ chồng, xung đột trong các tập thể, bất hoà giữa các tu sĩ trong cùng một dòng… phải được coi như những biểu hiện của một thực tế tâm lý ‘nằm sâu’ bên trong, chứ không phải là những hình thức tội. Đó là những triệu chứng mà ta phải cẩn thận nghiên cứu, kẻo để hụt mất nội dung của chúng. Nếu vậy sẽ có người bảo: ‘có ích gì khi dùng chữ tội làm nhãn hiệu luân lý để dán lên những cách ứng xử của con người? Làm như thế chẳng phải là đã tìm cách tránh không truy tầm những nguồn gốc vô thức sâu xa dẫn đến những cách ứng xử đó sao?’
    Đóng góp thứ hai của trào lưu phân tâm học là đã ảnh hưởng nhiều trên sự thay đổi của các Kitô hữu trong thái độ của họ đối với vấn đề tính dục. Nên nhớ ngày xưa tính dục được coi là một lãnh vực dễ phạm tội nhất.
    Đóng góp thứ ba của khoa phân tâm học là gieo nghi ngờ về mức độ tự do của chúng ta. Rốt cuộc chúng ta có thật sự tự do không? Freud còn dám nói, ở một vài chỗ trong tác phẩm của ông, con người đã bị qui định bởi các bản năng của mình. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng con người còn bị điều kiện hoá nhiều hơn, chứ không phải chỉ bởi vô thức của mình, như Freud đã nghĩ.
    Đóng góp thứ tư: Khoa phân tâm học cho biết rằng chúng ta không bao giờ có thể nắm được mình trọn vẹn; trong sự tự thú nào cũng có ít nhiều ích kỷ; và vì thế khoa phân tâm gây cho người ta nghi ngờ về giá trị của những việc xét mình và xưng thú.
    Đóng góp thứ năm: Khoa phân tâm tiết lộ cho thấy khả năng phạm tội của ta bắt nguồn sâu xa từ trong thời thơ ấu của mình. Như một nhà phân tâm học, bà Mélanie Klein, đã nói: ý thức về tội của ta có là do quan hệ của ta với mẹ mình khi ta được chừng hai tuổi. Nếu vậy thì ‘rốt cuộc tội chẳng qua chỉ là sự kéo dài những bất ổn tâm lý đã có từ xưa’. Người ta còn xét lại vấn đề này sâu xa tới mức nghi ngờ các Kitô hữu đã mắc một thứ bệnh thần kinh đặc biệt.
    Sau cùng, khoa phân tâm cổ võ thái độ đón nhận người khác, nhưng không phải để hướng dẫn hay chỉ thị. Từ nay đã có nhiều chủ chăn và giáo lý viên coi thái độ không lên án những ai đến giãi bày tâm sự với mình, coi việc tiếp nhận người khác một cách vô điều kiện là có giá trị xây dựng hơn cả việc sửa sai, trong đó có lưu ý đến tội của họ. Người ta cảm thấy dè dặt hơn mỗi khi nói đến tội.

    c/ Những hậu quả do quan điểm tri thức luận hiện nay đem lại
    c1/ Như ta đã biết, tri thức luận là suy tư về các hiểu biết. Nếu vậy, quan điểm về tri thức hiện nay có ảnh hưởng thế nào đối với vấn đề tội? Tôi xin bắt đầu từ nhận xét của Edgard Morin, một trong những nhà tư tưởng của Pháp hiện nay (tuy chưa được biết đến nhiều): ‘Trong mỗi người đều có sự hàm hồ và đối kháng’. Nghĩa là trong hành vi nhân linh nào cũng có sự mâu thuẫn. Nói một cách cụ thể, không có hành vi nhân linh nào chỉ đưa tới những hậu quả hoặc có giá trị nhân bản hoặc phi nhân bản. Theo tôi, chúng ta chưa ý thức đủ sự kiện đó trong đời sống luân lý của mình, trong khi dạy giáo lý hay cử hành việc sám hối. Hành vi nhân linh nào cũng đưa tới nhiều hậu quả khác nhau vừa tức thời vừa về lâu về dài; và có một số hậu quả trong đó mâu thuẫn nhau. Nếu có học thần học trước đây, ta sẽ thấy đó là điều mà các thủ bản luân lý gọi là những ‘hành vi song hiệu’. Thế nhưng, nói có một số hành vi song hiệu là vẫn còn thiển cận lắm, vì trong thực tế bất cứ hành vi nào cũng đưa tới nhiều hậu quả, cái thì đưa tới xây dựng cái thì phá hoại. Thử lấy một thí dụ: cuộc đình công của thợ thuyền tại Ba lan năm 1980. Đành rằng sự kiện ấy đưa tới những hậu quả hết sức tích cực, vì nó tiêu biểu cho tình trạng tự do được sống dậy nơi một dân tộc bị đàn áp khá nhiều. Nhưng đồng thời biến cố ấy cũng kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực như làm cho nền kinh tế bất ổn, gia tăng mối nguy cơ bị nước ngoài xâm chiếm, v.v… Trong một lãnh vực hoàn toàn khác như phụng vụ chẳng hạn. Phụng vụ đã chẳng ngần ngại gọi một hành vi hết sức phi nhân là ‘tội hồng phúc’ (‘felix culpa’): đó là tội của Ađam và Eva, đã khiến cho Đức Giêsu phải chết trên thập giá. Gọi là hồng phúc vì chính từ hành vi phi nhân của Ađam và Eva đó mà ta đã rút được muôn vàn ân phúc.
    Nói khác đi, từ một hành vi được cho là tốt luôn luôn có thể đẻ ra điều lành điều xấu. Từ một hành vi được coi là xấu cũng vậy. Ý thức được sự hàm hồ của hành vi nhân linh khiến ta đâm ra khó phân biệt hơn trong hai điều tốt và điều xấu, bên nào đang làm chủ tình hình. Thật vậy, phê phán một hành vi tốt hay xấu sẽ là phê phán hành vi ấy tốt nhiều hơn hay xấu nhiều hơn. Chẳng hạn khi nói hành động như thế là tốt hay xấu, thật ra tôi đã nói nhanh nói gọn. Còn nếu muốn nói thật chính xác, tôi phải nói: hành động ấy đưa tới những hậu quả có phần tốt và nhân bản nhiều hơn hoặc những hậu quả xấu và phi nhân nhiều hơn. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày ta nên ý thức rõ sự hàm hồ đó. Hành động theo luân lý là đương nhiên làm cho mình trở nên ‘mờ ám’, vì hành động nào cũng hàm hồ cả. Những ghi nhận có tính nhân loại trên đây không thể không làm ta nhớ tới một dụ ngôn rất quan trọng của Tin mừng: dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng. Dụ ngôn đó có thể giúp ta ý thức hơn: mỗi khi xét mình, ta sẽ thấy trong những hành động và vi phạm của mình luôn có sự mâu thuẫn. Vì thế, không phải bao giờ cũng dễ nhận ra mặt tiêu cực của tội mình, một khi tội mình cũng đưa tới những hậu quả tích cực.
    c2/ Kết luận thứ hai có thể rút ra từ việc xem xét lại các sự hiểu biết hiện nay. Đó là thực tại nào cũng nằm trong những hệ thống, nghĩa là trong những mạng lưới gồm nhiều yếu tố có ảnh hưởng rất phức tạp đối với nhau.
    Các văn bản của Huấn quyền đề cập đến các vấn đề đạo đức chưa có thái độ đó trong khi đặt vấn đề, đang lúc ấy toàn bộ văn hoá Tây phương hiện nay đều đã thấm nhuần tinh thần này. Và vì thế khiến cho các tín hữu cảm thấy hơi bực mình khó chịu.
    Xin đan cử một thí dụ cụ thể để làm sáng tỏ những gì tôi vừa nói. Hãy xem thái độ khó chịu của giáo dân về vấn đề điều hoà sinh sản. Tại sao vậy? Theo tôi, trong số nhiều lý do có lý do sau đây: các nhà thần học khi suy tư đã nhìn sự việc như những thực tại tự chúng đã có đầy đủ ý nghĩa, chẳng hạn như coi chu kỳ rụng trứng tự nó đã là dấu nói lên ý muốn của Thiên Chúa. Làm như thế là quên rằng chu kỳ rụng trứng là một yếu tố nằm trong một hệ thống đa tạp, đôi khi rất rộng lớn, như ‘hệ thống’ nhân cách toàn diện của người phụ nữ. Người phụ nữ ấy lại nằm trong ‘hệ thống’ đôi bạn, rồi đôi bạn lại nằm trong ‘hệ thống’ gia đình, gia đình nằm trong ‘hệ thống’ dân số nước Pháp, dân số nước Pháp nằm trong ‘hệ thống’ dân số thế giới. Trong các ‘hệ thống’ đó, ‘hệ thống’ nào tôi cho đóng vai trò là dấu chỉ ý muốn của Thiên Chúa trên con người? Muốn phê phán giá trị luân lý của việc điều hoà sinh sản, ta phải dựa khá nhiều vào câu trả lời cho thắc mắc đó. Nói rộng hơn, không thể nhận ra ý nghĩa của một hành vi, nếu không lưu ý tới những thực tại khác đã cùng với hành vi ấy làm thành một hệ thống. Vì thế, giải thích một hành vi để từ đó tuyên bố là có tội hay vô tội, quả là một việc làm vô cùng phức tạp.
    c3/ Một nhận xét cuối cùng về tri thức luận hiện nay: suy tư về các khoa học nhân văn khiến ta phải nghĩ rằng mọi hành vi của một chủ thể đều nằm trong lịch sử của chủ thể đó. Vì thế, cần phải đọc lại quá khứ của một người để phê phán trách nhiệm của người ấy. Chẳng hạn như khi đứng trước sự lỗi phạm về tính dục của một thanh niên. Thử hình dung một thanh niên vừa có quan hệ tính dục với một thiếu nữ. Hành vi này có thể mang rất nhiều ý nghĩa khác nhau, so với ngày xưa khi thấy thế người ta sẽ quả quyết ngay hành vi đó tự nó là một tội. Thế nhưng, trong quá trình lịch sử của người thanh niên ấy việc vi phạm ấy có thể là một cách để anh ta khám phá ra một giới tính khác. Hay có thể là một cách đi tìm khoái lạc ích kỷ. Cũng có thể là một cách kiểm tra sự ‘bình thường’ về tính dục. Sau hết có thể là một sự vi phạm lệnh cấm để thoát khỏi uy quyền của cha mẹ. Như thế, nếu biết nhạy cảm với quá trình lịch sử của anh ấy, ta sẽ rất khó đưa ra một nhận định, khó hạ lời phán quyết ngay đó là một hành vi tội lỗi, như ngày xưa người ta thường mau lẹ tuyên bố không chút ngần ngại.

    2. Một vài nguyên nhân thuộc phạm vi xã hội học
    Vì khuôn khổ của bài, tôi xin vắn tắt đôi lời. Trước hết là sự kiện các vấn đề hiện nay thường được cứu xét ở cấp độ quốc tế. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, từ vài thập niên nay, mọi người trở nên liên đới với nhau trên cấp độ quốc tế. Từ đó phát sinh hai tình cảm: các lựa chọn của ta trong lãnh vực luân lý đều bị điều kiện hoá, và ta không còn biết đâu là những mối liên hệ phải ưu tiên hơn hết. Bây giờ thật khó xác định rõ trách nhiệm của mỗi người. Chẳng hạn khi đứng trước vấn đề cứu trợ một nước kém mở mang đang bị một nhà độc tài khát máu cai trị, ta không biết đâu là hợp đạo lý hơn: cứ cứu trợ dù biết rằng viện trợ ấy có thể bị nhà đôc tài lạm dụng hay đừng trợ cấp gì hết để nhà độc tài bị hạ bệ do tình hình kinh tế trong nước suy sụp? Một thí dụ khác: làm sao biết được tăng giá các sản phẩm công nghiệp ở Pháp là điều tốt? Phải ưu tiên bên nào hơn: nước Pháp hay các nước kém mở mang? Nhân danh điều gì để chọn lựa? Nhân danh hệ thống giá trị nào? Sự kiện các vấn đề trở nên có tính cách quốc tế như vậy thường làm các Kitô hữu cấp cơ sở có cảm tưởng rằng bây giờ họ không còn trách nhiệm đạo đức gì nữa và chỉ có một số ít chuyên viên cao cấp nắm mọi hồ sơ trong tay mới có thể thấy rõ vấn đề và chịu trách nhiệm? Từ đó, ngay cả việc tìm lại ý niệm tội tập thể cũng trở nên khó khăn.
    Ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng. Chúng ta được cung cấp nhiều mô hình đạo đức khác nhau. Chẳng hạn trong việc tôn trọng sự sống, phá thai, ly dị, trai trẻ sống chung như vợ chồng. Các phương tiện truyền thông tha hồ ‘khua mõ’, khiến cho nhiều người cảm thấy thật khó đưa ra những nhận định luân lý.
    Sự kiện ngày nay con người đề cao tự do và dân chủ cũng góp phần làm cho mọi người coi nhẹ việc bất tuân lệnh Chúa, cội rễ của mọi tội.
    Sau cùng, để kết thúc phần suy tư ngắn ngủi về các nguyên nhân thuộc phạm vi xã hội học khiến cho ý niệm về tội ngày nay thay đổi, tôi xin nhắc lại tình trạng không tin phổ biến hiện nay. Đây là một nguyên nhân rất quan trọng làm cho con người ngày nay mất đi ý niệm về tội vì, như lát nữa tôi sẽ nhắc lại, ta chỉ ý thức về tội được trong tương quan với Thiên Chúa.

    3. Hai nguyên nhân thuộc phạm vi thần học.
    Có nhiều nguyên nhân thuộc phạm vi này, nhưng tôi chỉ xin nêu ra hai điểm.
    Trước hết là trong mấy thập niên gần đây, tư tưởng Kitô giáo đã nhìn Thiên Chúa với những hình ảnh mới. Cứ chăm chú lắng nghe và đọc các bản văn của Kitô giáo hiện nay, ta sẽ thấy những hình ảnh của mình về Thiên Chúa có thể đưa mình đến tội và ngược lại. Chẳng hạn quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi đang hoạt động trong cuộc đời ta có ảnh hưởng rất quan trọng đến ý thức về tội. Từ mấy chục năm nay, đề tài về tội lỗi ít được chú ý. Đồng thời bên cạnh đó ta cũng thấy người ta đã nhìn Thiên Chúa theo một quan điểm mới: chú ý tới Chúa Thánh Thần hơn Chúa Cha là Đấng ban hành luật lệ. Sự trùng hợp đó chắc chắn không phải do tình cờ. Kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần không phải là kinh nghiệm về sự tự do sao?
    Một dữ kiện thần học nữa có ảnh hưởng lớn trong việc biến chuyển ý thức về tội: cái nhìn mới về thập giácánh chung. Ngày nay người ta ưa nhìn thập giá như hậu quả của một tội tập thể, đã khiến nhân vật Giêsu kia đã chịu xử án bất công. Còn cánh chung không được trình bày như một sự đoạn tuyệt hẳn với thế giới này. Ngược lại, nhiều nhà thần học nhấn mạnh, đôi khi hơi quá đáng, rằng có một sự liên tục giữa thế giới này và thế giới sau, thế giới của con người bên kia cõi tục luỵ này. Vì thế, người Kitô hữu được mời gọi dùng các hoạt động của mình để xây dựng thế giới này, bởi chưng chính thế giới này, chứ không phải thế giới nào khác, sẽ được cuộc phục sinh biến đổi. Như vậy, nếu tội là có một quan hệ xấu với thế giơi, thì đương nhiên tội là một hành vi phá hoại tạo vật.
    Trên đây là một số lý do khiến nhiều người hôm nay cảm thấy lúng túng khi nói đến tội. Theo tôi, những lý do ấy đã có ảnh hưởng rất sâu đậm. Vì thế, phải chờ khá lâu các tín hữu mới tìm lại được sự an tâm phần nào trong ý thức về tội, cũng như trong cách trình bày khả năng có tội. Muốn vậy, họ chỉ còn một cách là quay về với giáo huấn của Thánh kinh và Thánh truyền. Do đó, sau này tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu một trong những trang nổi tiếng nhất của Kinh thánh, trình bày một tội điển hình vào đầu lịch sử nhân loại, quen gọi là tội nguyên tổ.


    Tác giả: Xavier Thévenot
    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  4. Có 3 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


  5. #3
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG II: TỘI NGUYÊN TỔ - Phần 1

    CHƯƠNG II: TỘI NGUYÊN TỔ

    Một tội điển hình: tội của Ađam và Eva
    Tôi không có tham vọng giới thiệu một công trình nghiên cứu tội nguyên tổ một cách chuyên sâu, mà chỉ muốn giúp các bạn, nhờ một số kỹ thuật của khoa phân tâm, đọc lại tội nói ở sách Sáng thế đoạn 3 (có thể coi đó là một tội điển hình) với một cái nhìn mới. Hy vọng nhờ đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tội ‘bắt đầu’ từ đâu (hay cám dỗ là gì), tội hệ tại ở chỗ nào và hậu quả của tội. Để kết thúc, tôi sẽ nêu ra vắn tắt vài điểm làm mốc để suy nghĩ về ‘tội thụ sinh’ (péché origéné) nghĩa là tình trạng của mọi người khi sinh ra , phân biệt với ‘tội tác sinh’ (péché originant) là tội của tổ tiên nhân loại.

    I. VÀI LƯU Ý ĐẦU
    VỀ St 3+ Lưu ý thứ nhất.
    Hành vi của tổ tiên nhân loại, mô tả ở St 3 không được gọi là sự ‘sa ngã’. Cần lưu ý điểm này, vì nói ‘sa ngã’ tự nhiên ta nghĩ ngay tới việc rơi xuống từ một tình trạng đặc biệt, từ tình trạng ở ‘trên mức tự nhiên’ xuống tình trạng thấp hơn là tình trạng tự nhiên thuần tuý. Thế nhưng, lát nữa ta thấy nhìn như thế là sai. Vì vậy, tốt hơn nên gọi bản tường thuật St 3 là bản tường thuật về một hành vi quá phạm; con người kể trong bản tường thuật ấy không hề bị tước mất những ân huệ đặc biệt.

    + Lưu ý thứ hai.
    Bản tường thuật tội Ađam và Eva không được nhắc tới nhiều trong Kinh thánh. Cựu ước chỉ liên tưởng tới đó có hai lần ở Hc 25,24 và Kn 2,24. Đối với Tân ước, phải phân biệt các sách Tin mừng và toàn bộ tác phẩm của Phaolô. Trong các Tin mừng, Đức Giêsu không nghĩ tới bản tường thuật đó một cách rõ ràng, ngoại trừ ở Gioan 8,44. Đang khi ấy, Phaolô dành một chỗ rất lớn để nói tới sư quá phạm của Ađam. Tại sao vậy? Vì Phaolô rất nhạy cảm với sự liên đới với mọi người trong ơn cứu độ do Đức Kitô, Con người mới, Ađam mới, mang lại. Và nhân dịp đó, Phaolô nói đến sự liên đới của mọi người trong tình trạng tội lỗi do tội của Ađam gây ra. Nói cách khác, (lưu ý này rất quan trọng) chính vì đề cập đến Đức Kitô (Kitô học) mà Phaolô mới suy nghĩ về Ađam hay về cái mà các nhà thần học gọi là luận về Ađam (hay Ađam học).

    + Lưu ý thứ ba.
    Thể văn tường thuật này theo truyền thống Giavítta (có từ năm 950 trước Công nguyên) là một thể văn huyền thoại theo nghĩa tốt. Như vậy, bản văn này không có ý mô tả một biến cố lịch sử. Hơn thế nữa và quan trọng nhất, như Paul Ricoeur giải thích, bài tường thuật ấy có ý ‘cụ thể hoá một điều phổ quát’ hay là một cách khái quát hoá kinh nghiệm của con người. ‘Ông’ Ađam đó chính là hết mọi người. Vì thế, ai cũng có thể tìm thấy đôi chút kinh nghiệm của bản thân mình, khi đọc bản văn đã được viết cách đây gần 3000 năm đó. Sau cùng huyền thoại ấy giúp ta suy nghĩ không ngừng về diễn biến của lịch sử, có lưu ý đến thân phận nhân loại của mình.

    + Lưu ý thứ tư.
    Bài tường thuật này rất có thể đóng vai trò tầm nguyên (étiologique). Nghĩa là giúp suy nghĩ về nguồn gốc của sự dữ hay những xáo trộn của lịch sử con người. Ai cũng biết sự dữ là một trong những vấn nạn căn bản của con người. Paul Ricoeur nói: đó là ‘sự chọc giận lớn nhất bắt ta phải suy nghĩ và là sự mời mọc thâm hiểm nhất bắt ta phải chửi rủa’. Quả thế, sự dữ bắt ta nghĩ đến sự phi lý. Khi đụng chạm sự dữ, trong đầu ta nghĩ đến hai câu hỏi: sự dữ bởi đâu mà có? và tại sao có? Tôn giáo nào cũng bận tâm tới vấn đề nhức nhối này. Để nắm được nét độc đáo của suy tư Kitô giáo về vấn đề này, tôi xin kể ra bốn giải pháp cổ điển đã được các tôn giáo đưa ra trong lịch sử.
    - Một số tôn giáo cho rằng sự dữ đã có từ nguyên thuỷ và xuất phát từ sự hỗn mang nguyên sơ. Nếu vậy, cứu độ là một hành vi của một Thiên Chúa nhân hậu chống lại sự hỗn mang đó để tạo thành vũ trụ.
    - Có tôn giáo cho rằng có 2 nguyên lý sáng tạo: một thần tạo ra điều tốt và một thần làm ra sự dữ.
    - Một vài tôn giáo và huyền thoại khẳng định chính Thiên Chúa gây ra cám dỗ; đó là một Thiên Chúa mù quáng và sai lầm, bắt con người phải theo một định mệnh rất bi thảm và con người không thể nào đi ngược lại. Những suy tư này có rất nhiều trong các vở kịch Hy lạp.
    - Sau cùng có tôn giáo chủ trương sự dữ có là do một số linh hồn sa đoạ; đó là các mảnh hồn của thần linh rơi vào vật chất. Thân xác là một cơ cấu xấu xa từ ngoài chụp lấy con người. Sự dữ chính là tính trần tục của thế giới. Cứ theo chiều hướng suy nghĩ đó thì con người không phải chịu trách nhiệm về sự dữ, dù chính mình cưu mang nó.
    Trước những cách giải thích đó, bài tường thuật về sự quá phạm của Ađam là một nỗ lực của đức tin Do thái giáo muốn suy tư về vấn đề căn bản ấy: vấn đề nguồn gốc sự dữ và sự thiện. Trọng tâm của bài tường thuật là phân biệt hai mặt của nguồn gốc tạo vật:
    - Một đàng, sự thiện xuất phát từ một nguồn gốc uyên nguyên là Thiên Chúa; Người đã làm ra tạo vật tốt đẹp.
    - đàng khác, sự dữ phần nào là do một cặp vợ chồng đã tự ý vi phạm một mệnh lệnh của Thiên Chúa, dù chính họ cũng do Thiên Chúa tạo ra. Tôi nói phần nào, vì như sẽ thấy, trước mặt Ađam và Eva lúc đó có con rắn, một kẻ đã bóp méo Lời Chúa trước cả Ađam và Eva (cf. P. Ricoeur, ‘Finitude et culpabilité’, t.2: ‘La symbolique du mal’, Aubier-Montaigne, 1960).
    Như thế, trong Kinh thánh, sự dữ phần nào không còn là định mệnh tất yếu và đã được xác định là một sự kiện lịch sử, đang khi trong các huyền thoại khác sự dữ là một vết nhơ lan tới con người dù con người không muốn. Theo St 3, con người được giới thiệu như kẻ có tội, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về một số sự dữ và một số trục trặc trong lịch sử. Theo nghĩa đó, câu chuyện huyền thoại của Kinh thánh có một chức năng là làm nền tảng cho khoa đạo đức: con người không phải là một con rối hoàn toàn thụ động trước những sự tất định xấu xa. Con người là một hữu thể tự do, có thể tự điều khiển tương lai của mình một phần nào.
    Bây giờ ta hãy đi vào chi tiết câu chuyện quá phạm của Ađam. Vì không thể hiểu bài tường thuật này ngoài bài tường thuật về sự sáng tạo trước đó, nên tôi sẽ giúp các bạn đọc St 2 trước. Tuy nhiên tôi sẽ tạm gác các bản văn này để nói tới một số dữ kiện đang phổ biến của phân tâm học. Nhờ đó ta sẽ thấy rõ hơn hai bản tường thuật của St 2 và 3 có nội dung rất súc tích về nhân loại học. Quả là có một sự tương ứng rất đặc biệt giữa những quan điểm nhân loại học hiện nay và những cái nhìn có thể rút ra từ hai bản văn đó. Có thể có người trách tôi là đã rơi vào chủ nghĩa tương phù (concordisme), nghĩa là tìm mọi cách để cho Thánh kinh và khoa học ăn khớp với nhau. Thiết tưởng nói thế là không đúng, vì tôi không hề bảo rằng mục tiêu của các bài tường thuật trong Kinh thánh là mô tả một cách khoa học sự xuất hiện của con người và phân tích tâm lý con người. Sự tương ứng giữa các nghiên cứu hiện nay và những khẳng định của các bài tường thuật ấy cho thấy rằng Lời Chúa đã nói và đã đến với chúng ta qua những cơ cấu căn bản nhất của con người.

    II. VÀI DỮ KIỆN PHỔ BIẾN CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ SỰ SINH THÀNH CỦA CON NGƯỜI

    Ta hãy suy nghĩ về sự sinh thành của con người. Ngay từ phút khởi đầu, mỗi chủ thể là một hữu thể mà tiếng La tinh gọi là ‘infans’, nguyên ngữ có nghĩa là ‘chưa có khả năng nói’. Hữu thể ấy trước hết sống trong bụng mẹ. Tình trạng nguyên thuỷ của hữu thể ấy là sống trong một thế giới chưa phân định (thế giới của đồng nhất), mà trong sơ đồ dưới đây ta có thể hình dung như một quả trứng. Thế giới ấy được gọi là thế giới hỗn hợp, theo nghĩa có một sự cộng tác toàn diện giữa hữu thể ấy với nguồn gốc của mình, tức là mẹ mình. Thế giới hỗn hợp ấy sẽ ảnh hưởng đến hữu thể này suốt đời qua một số dấu vết còn tồn tại mãi. Nếu vậy, thế giới nguyên thuỷ này có những đặc điểm gì?

    Có bốn hay năm đặc điểm. Quan trọng nhất là không có sự phân định. Quả thế, thế giới nguyên thuỷ này không có hai sự khác biệt quan trọng nhất là thời gian, một đặc điểm của mọi cuộc sống về sau, và sự hiện diện của người khác mà ta phải đương đầu để tồn tại. Đàng khác, bên dưới thế giới hỗn hợp ấy không có một sự trung gian nào, vì có trung gian là giả thiết hai bên có sự khác nhau. Đó cũng là một thế giới không hề sứt mẻ, đặc biệt là hai sự sứt mẻ quan trọng mà ta từng gặp trong đời: sự thất bại và, triệt để hơn, cái chết. Cuối cùng, đó là một thế giới của sự vạn năng mà người ta hằng mơ ước: thai nhi chưa hề biết người khác và chỉ sống trong vòng tay của chính mình hay của cái gì giống hệt mình. Vì thế, dường như không gì có thể chống lại quyền lực của thai nhi.

    Đó chính là thế giới nguyên thuỷ cuả mỗi người chúng ta, có để lại nhiều dấu vết trong cuộc đời ta, và dù lớn đến đâu đi nữa, ta vẫn không nguôi nhớ nhung thế giới ấy. Đành rằng đó là thế giới tuyệt diệu, nhưng giam mình trong đó là tự kết án không cho mình được có mặt trong thế giới (thật)! Vì thế, trở thành con người là chấp nhận từ bỏ thế giới hỗn hợp ấy để đi tìm tha nhân trong sự khác biệt. Nói cách khác, ngay ở phút đầu cuộc đời ta, đã có một cuộc vượt qua: từ bỏ để tìm gặp. Thai nhi, một hữu thể chưa biết nói, phải rời bỏ tình trạng hỗn hợp nguyên thuỷ ấy để trở nên cái mà Lacan gọi là ‘parlêtre’ (parler-être), nghĩa là một chủ thể biết nói, có thể liên lạc, yêu mến. Sống là luôn luôn biết hoà hợp các ký ức về sự đồng nhất hằng ám ảnh ta với sự khác biệt đang chờ đợi và chi phối ta.

    Dĩ nhiên từ bỏ một thế giới tuyệt vời như thế không phải làm một lần là xong: không phải ra khỏi bụng mẹ là đã từ bỏ xong. Cần phải có một thẩm cấp bên trên giúp cho hữu thể chưa biết nói ấy (‘infans’) biết từ kinh nghiệm hiện sinh của mình rằng từ nay nó không thể và bị cấm tái tạo lại thế giới tuyệt vời ấy, thế giới mà nó cho là mình đã sống vào thuở ban đầu. Cấp trên ấy sẽ làm cho hữu thể này tỉnh mộng, đẩy nó tới chỗ chỉ còn cách là từ bỏ thế giới nguyên thuỷ ấy: nó thấy mình bị cấm sống trong tình trạng bất phân định, như sơ đồ cho thấy từ nay giữa hữu thể ấy với nguồn cội của nó sẽ mãi mãi có một lỗ hổng, một sự thiếu hụt. Từ đó nó bị cấm không được tái tạo lại một thế giới bất phân định, một thế giới không sứt mẻ, một thế giới vạn năng. Cũng theo sơ đồ này, ta thấy ngay cần phải có sự cấm chế ấy chủ thể mới vươn lên được. Nếu vậy, sự cấm chế làm cho sống chứ không giết chết vì nhờ đó chủ thể không còn bị đồng nhất với mình và người khác. Nói cách khác, từ nay trong quan hệ nhân bản sẽ luôn luôn có ba cực: người khác, tôi và sự thiếu hụt (lỗ hổng). Thậm chí có thể nói ngay cả đối với bản thân mình cũng luôn luôn có ba cưc: tôi quan sát, tôi bị quan sát và sự thiếu hụt (lỗ hổng). Thế là chấm dứt ước mơ muốn người khác và bản thân mình hoàn toàn trong suốt đối với mình; mình không còn thấu hiểu mình và người khác hoàn toàn được nữa.

    Nếu vậy, thẩm cấp đưa ra cấm chỉ ấy là gì? Đó chính là cái mà ngôn ngữ chuyên môn của phân tâm học gọi là ‘quy luật tổ tiên’. Đây không phải chỉ là quy luật của người cha bằng xương bằng thịt, nhưng ám chỉ một thực tại rộng lớn hơn. Có thể nói đó là quy luật của văn hoá, nhất là quy luật của ngôn ngữ bắt ta phải đi qua các yếu tố trung gian của ngôn ngữ và như thế giữa ta và điều ta muốn nói có một khoảng cách. Nói luôn luôn là giữ một khoảng cách nào đó với các sự vật mà ta muốn nói. Nói về một điều gì là không còn đồng nhất mình với sự vật ấy nữa, mà là tạo ra và nhìn nhận có một lỗ hổng giữa ta với sự vật ấy.

    Nói cách khác, dựa vào những suy tư đã được phổ biến của khoa phân tâm, ta thấy sống chính là thực hiện một kiểu hiện diện có nhìn nhận những khác biệt, từ bỏ tình trạng vạn năng, đồng nhất với người khác, để công nhận vai trò trung gian của các thực tại văn hoá. Trong các bài tường thuật có tính huyền thoại ở St 2 và 3 có nhiều điểm tương tự loại suy khá đặc biệt của khoa nhân loại học hiện nay, dù các bản tường thuật ấy có đóng góp thêm nhiều dữ kiện về thân phận con người trước mặt Chúa.


    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  6. Có 3 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


  7. #4
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG II: TỘI NGUYÊN TỔ - Phần 2

    III. ĐỌC BÀI TƯỜNG THUẬT CỦA PHÁI GIAVÍTTA VỀ SỰ SÁNG TẠO: St 2,4b – 3,24

    Bài tường thuật này (cf. X. Thévenot, ‘Emmaus, une nouvelle genèse?’ trong ‘Mélanges de Science Religieuse’, n 1/1980) mô tả thế giới trong tình trạng nguyên thuỷ như một sa mạc hoang vu đối chọi với một vùng đất đã được canh tác hẳn hoi. Có thể nói đó là một bước đi lên của một thiên nhiên thô sơ sang một thiên nhiên đã mang đậm dấu vết của văn hoá nhân loại, từ tình trạng hỗn mang hoang vu sang tình trạng có sự góp mặt của lao động con người (c.15). Hơn nữa việc sáng tạo ấy tiến xa tới mức ngôn ngữ loài người đã được sử dụng: ‘con người đặt tên cho các loài vật, chim trời, dã thú’ (c.20a). Như vậy, con người được giới thiệu trong bản tường thuật này là một con người đã làm một hành vi sáng tạo khi đặt tên cho các loài. Thế nhưng việc sáng tạo không dừng lại ở chỗ đặt tên cho muông thú thôi, mà trái lại đã tiếp tục và đạt tới đỉnh cao khi con người nhận ra phụ nữ là người thật sự đối xứng với mình, thế rồi thốt lên một lời thật rõ ràng, thật sung sướng: ‘Lần này, đây là xương tự xương tôi, thịt bởi thịt tôi, vì thế người ta sẽ gọi nó là Isha (‘đàn bà’) vì nó đã được rút ra từ Ish (‘đàn ông’) (c.23). Nếu vậy, theo tác giả St 2 Thiên Chúa sáng tạo là cho phép có một thế giới trong đó các vật có hồn hay không hồn đều tùng phục quyền bính của con người, một sự tùng phục biểu lộ qua một trung gian là lao động và ngôn ngữ. Sau cùng, ngay lúc này ta nhớ lại cuộc sáng tạo của Thiên Chúa lên tới cao điểm khi con người vui vẻ nhìn nhận có sự khác nhau về tính dục.

    Thế nhưng, hãy đọc bản văn Kinh thánh kỹ hơn. Bài tường thuật bắt đầu bằng cách mô tả một miền đất không có cây cối. Chỉ có nước dưới lòng đất len lỏi qua các khe (c. 4-6c). Thửa đất ấy thật hoang vu, nhất là khi con người không có mặt thường xuyên ở đó để canh tác trồng trọt. Chính vì đó, Giavê xuất hiện để làm một việc nắn uốn, tương tự như công việc của người thợ gốm (c. 7a). Ađam được nặn thành hình với bụi rút lên từ đất (adama). Câu 7 cho thấy hai điều: một đàng, Thiên Chúa là người thợ gốm có một không hai; Người dùng bụi (aphar) chứ không dùng đất sét để làm ra Ađam. Thứ đến con người – sau này sẽ cho biết đó là con người có giới tính – có liên hệ với vũ trụ ở một cấp tầm thường nhất, hoàn toàn không đáng kể, đó là bụi đất. Bụi không phải là cái dính ở chân và bằng mọi giá phải rũ sạch nó hay sao? Qua chi tiết này tác giả mời gọi ta nhớ rằng con người có nguồn gốc sâu xa trong vũ trụ, nguồn gốc chung với mọi thú vật (c. 19). Quả thật, dù trưởng thành rồi, các ước vọng của ta vẫn luôn luôn mang dấu vết sâu đậm của các lực lượng vũ trụ u ám đó. Tôn trọng tạo vật thật sự không bao giờ là tìm cách loại trừ, phủ nhận các lực lượng vũ trụ đang chi phối con người và đang kéo con người lùi lại.

    Câu 7b cho biết Thiên Chúa làm cách nào để ban sự sống cho hình hài đã được Người nắn lên: Người thổi hơi vào lỗ mũi hình thù ấy hơi thở của sự sống (neshama). Đành rằng hơi thở này cho thấy sự mong manh của con người. Nhưng đó cũng là dấu nói lên con người được tự lập với đấng tạo thành mình. Tự lập vì từ nay con người có hơi thở riêng. Nên lưu ý là trẻ nhỏ tỏ ra tự lập trong sinh hoạt hô hấp hơn trong sinh hoạt dinh dưỡng. Thế nhưng đây là sự tự lập nhận lãnh được, vì theo bài tường thuật Chúa đã tặng không cho hình thù bất động ấy hơi thở của Người. Sự tự lập nhận lãnh được này, ta cũng sẽ thấy khi Thiên Chúa hoàn thành công cuộc sáng tạo của mình qua việc sai Thánh Thần xuống (Cv 2). Cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đã được tái tạo lại (được sống dậy) một cách vĩnh viễn khi đón nhận hơi thở (pneuma, còn gọi là Thần Khí) của Đức Giêsu. Mọi nỗ lực của ta nhằm nhân bản hoá, nếu muốn trở thành những nỗ lực có khả năng tái tạo, đều phải dựa trên ý thức nghiêm túc thế nào là biến đổi từ thân xác sống động do hơi thở của Giavê (St 2,7) sang thân xác sống động do Thần Khí (pneuma) (1Cr 6) để trở thành thân xác ‘thần khí’ toàn diện (1Cr 15,44). Chủ đề hơi thở hay Thần Khí rất phong phú: sách St 1,2 đã cho biết Ruah (Khí) ngay từ thuở khai nguyên đã bay lượn đây đó, Lc 1,35 khẳng định Ruah đã chiếm trọn Đức Maria để ngài hạ sinh đứa con đầu lòng của trật tự sáng tạo mới. Khi suy nghĩ về con người trong thân xác mình, về các mối quan hệ của con người, ta không thể không nghĩ tới thân xác đã được thổi hơi vào, không thể không nghĩ tới hơi thở sáng tạo của Thiên Chúa. Hơi thở hay Thần Khí này theo Gioan là nhân vật duy nhất có khả năng đưa ta tới chân lý toàn diện (Ga 16,13). Còn thánh Mátthêu cho rằng phạm tội đối với nhân vật này là đã tự kết án mình để không bao giờ được gặp Thiên Chúa nữa (Mt 12,32).

    Câu 8 và câu 15 cho biết con người đầu tiên được Chúa đặt trong vườn địa đàng để dùng làm lao động biến cải đất đai. Nên lưu ý là ngay trong vườn gọi là ‘hoan lạc’, một nơi sống rất thoải mái, con người vẫn phải chấp nhận những trung gian, nghĩa là phải canh tác trồng trọt. Sống hạnh phúc không phải là được hưởng thụ trực tiếp như trong thế giới hỗn hợp của thai nhi. Luca 4,3 cũng gián tiếp nhắc lại chân lý này. Ma quỷ đề nghị Đức Giêsu sử dụng quyền năng Con Thiên Chúa để tiết kiệm lao động: ‘ chỉ cần phán một lời thôi, ngươi sẽ biến đá này thành bánh’. Nhưng Đức Giêsu đã dứt khoát từ chối sử dụng quyền năng theo lối đó.

    Khước từ hưởng thụ trực tiếp và tức khắc, điều ấy còn được nói rõ hơn khi ta đọc thấy lệnh cấm căn bản của Thiên Chúa (c. 9 và c. 16-17). Lệnh cấm này liên hệ chủ yếu tới vai trò của miệng: ‘Ngươi không được ăn trái cây biết lành biết dữ’. Miệng vốn được coi là nơi hình thành nhân cách theo quan niệm xa xưa. Vì thế không lạ gì trong Kinh thánh các cám dỗ phần lớn có liên quan đến cái miệng như cám dỗ của cặp vợ-chồng đầu tiên, cám dỗ của dân Chúa trong sa mạc, cám dỗ của Đức Giêsu. Qua lệnh cấm này, Thiên Chúa đã khơi gợi lòng thèm muốn của con người; con người vốn không được ăn trái cây hiểu biết mà! Sách St 2 cho biết: yêu thương, sống và sống nên người, là phải lao động và phải tập khát khao giữa một thế giới có nhiều khác biệt (khác biệt giữa cây được ăn và cây bị cấm), có thiếu hụt và lỗ hổng. Ngay ở câu 9, tác giả đã giới thiệu chủ đề thị giác, một chủ đề đóng vai trò rất quan trọng ở St 3: ‘các cây trong vườn nhìn thật sướng mắt!’. Ở đây, tác giả chỉ mới cho biết nhìn là nguồn đem lại khoan khoái. Ít lâu sau, tác giả sẽ cho thấy nhìn là con đường mở cho cám dỗ lọt vào.

    Kèm theo luật cấm căn bản của Thiên Chúa, có một lời tuyên bố như sau: ‘ngày nào ngươi ăn trái cây biết lành biết dữ, ngươi sẽ phải chết’ (c.17). Lời tuyên bố này có phải là một lời đe doạ của Thiên Chúa không (‘Ta sẽ phạt ngươi vì sự bất tuân ấy’)? Nếu đúng vậy thì hình phạt là một cái gì nằm ngoài con người. Thế nhưng trong phần tiếp của câu chuyện, ta không thấy Ađam và Eva chết ngay sau khi lỗi phạm. Câu 3,19 đã từng bảo con người là bụi đất, nên con người bây giờ phải trở thành bụi đất chứ! Dựa vào một số đoạn Thánh kinh coi cái chết chỉ là một hiện tượng tự nhiên, các nhà thần học đã không chấp nhận giả thuyết trên đây. Một số thần học gia muốn coi câu 17 chỉ là một lời tuyên bố có tính cách ghi nhận hơn: ‘con người chỉ có thể sống, sống thật sự khi tôn trọng sự thiếu hụt, lỗ hổng, chấp nhận những trung gian, tình trạng không biết lành biết dữ trọn vẹn. Nếu không tôn trọng và chấp nhận như thế, thì do sự tất yếu nội tại, cuối cuộc hành trình con người sẽ chết’.

    Nên lưu ý trái cấm là trái của cây biết lành biết dữ. Các nhà chú giải hiểu rằng đó là cây mang những trái có thể giúp con người nắm được cái bí mật vượt quá sức mình. Nếu vậy, Thiên Chúa đã ‘cắt ngang’ và làm con người cụt hứng trong ước vọng muốn biết tất cả, làm chủ tất cả. Con người được cứu độ ở chỗ không biết tất cả.

    Sau khi cho thấy con người phải tuân hành lệnh cấm căn bản ấy và con người lúc nào cũng khắc khoải nỗi khát vọng ấy, câu 18 đề cập tới sự cô độc của con người; ‘con người ở một mình không tốt, Ta muốn làm cho nó một người trợ thủ như nó’. Cô độc cũng được coi như một bất hạnh. Con người chỉ có thể thực hiện ước vọng của mình một cách vui tươi khi có sự chia sẻ của người phụ nữ. Câu chuyện quá phạm sau này cho thấy một trong những hậu quả của tội là đưa con người về lại trình trạng cô độc trong tội bằng cách cắt đứt sự liên đới với người khác (St 3,12). Các câu 19-20 tuy mô tả Giavê cũng nắn lên các thú vật từ đất như con người, nhưng không thấy nói chúng nhận hơi thở của sự sống (neshama) của Giavê. Vì thế, hình như giữa người và thú vật không giống nhau bao nhiêu. Đó là một định lý tâm lý rất thích đáng:càng khác nhau người ta càng cô độc hơn. Chỉ khi nào biết hoà hợp khéo léo sự dị biệt và sự tương đồng, cái khác và chính mình, ta mới có thể vui vẻ đảm nhận thân phận con người. Đây chính là ý nghĩa của sự kiện người đàn bà được dựng nên từ cạnh sườn của người đàn ông. Bài tường thuật ấy cũng cho thấy người đàn bà vừa giống vừa khác người đàn ông. Quả thế, nam nữ cùng có một bản tính vì cả hai đều chung một xương thịt. Tiếng kêu lên đầy hoan hỉ của người đàn ông càng cho thấy rõ điều đó: ‘này đây xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi’. Nhân đây nên nhắc lại sự hiệp thông giữa người nam và người nữ không phải là do sáng kiến của người nam. Ađam chỉ nhìn nhận một thực tại không phải do mình làm ra; nguồn gốc của người đàn bà có phần nào bí mật đối với ông, vì bà được tạo dựng lúc ông ngủ. Như vậy lại thêm một hình thức vô tri không biết. Ước muốn biết hết , muốn toàn năng, muốn hiểu tường tận về nguồn gốc của mình và của người khác một lần nữa đã bị đánh đổ! Người đàn ông lên tiếng để nhìn nhận người đàn bà vừa giống vừa khác mình, là do tình trạng vô tri không biết hết. Vì được rút ra từ người đàn ông (ish) nên người nữ sẽ được gọi là đàn bà (ishsha).

    Rốt cuộc, dựa theo các bài tường thuật trên đây, ta thấy Thiên Chúa sáng tạo không phải là làm xuất hiện một thế giới vượt trên tự nhiên, mà chỉ là một thế giới trong đó con người chỉ làm chủ vũ trụ qua lao động và ngôn ngữ, trong đó có sự khác biệt giữa cây được phép ăn và cây bị cấm, có sự khác biệt giữa Thiên Chúa và thụ tạo, giữa người đàn ông và người đàn bà: những điều này ta nhận thức được là nhờ tin vào lệnh cấm của Tạo hoá. Sau hết, trong thế giới đó người ta có được những giây phút kết hợp thâm sâu thật hoan lạc, không phải tụt xuống thế giới tự nhiên mà mình đã từ đó ngoi lên. Đọc câu chuyện quá phạm của Ađam – Eva, ta cảm thấy tội lỗi đã phá vỡ sâu xa sự quân bình căn bản đó, bằng cách làm cả công trình sáng tạo như phải xuống cấp.

    IV. BÀI TƯỜNG THUẬT CỦA TRƯỜNG PHÁI GIAVÍTTA VỀ SỰ QUÁ PHẠM: St 2,25 - 3,19

    Bài tường thuật này bắt đầu từ câu 25 bằng cách lưu ý rằng người đàn ông và người đàn bà trần truồng nhưng không cảm thấy xấu hổ. Truyền thống Giáo hội lâu nay vẫn thắc mắc không biết trong trình thuật ấy có liên tưởng đến vấn đề tính dục không. Nhờ các nhà thần học không lên tiếng mà có người đã dám quả quyết rằng tội nguyên tổ chính là một tội liên quan đến tính dục. Đọc lại trình thuật trên đây bắt ta phải tránh những khẳng định hồ đồ đó! Nếu vậy phải hiểu việc ‘trần truồng’ trong trình thuật ấy thế nào? Trước hêt, phải lưu ý rằng trần truồng tự nhiên gợi cho ta một cái gì yếu đuối: người trần truồng là người bị tước mất mọi vũ khí. Vì thế, không phải là vô nghĩa khi Tân ước giới thiệu Đức Giêsu, Ađam mới, đã chết trần truồng trên thập giá, tới mức phải phó thác tất cả cho quyền năng Cha. Tuy nhiên, theo tôi, ta cũng có thể đọc đề tài trần truồng ấy theo một nhãn quan khác. Quả thế, St giới thiệu cho chúng ta người đàn ông và người đàn bà không hề xấu hổ với nhau dù trần truồng. Điều ấy có nghĩa là họ biết sự khác biệt giới tính giữa họ với nhau và họ phải lệ thuộc nhau. Chính điều đó bắt họ phải nghĩ tới sự bất lực và thân phận thụ tạo của mình. Quả thật, giới tính – ai cũng có thể ý thức điều này rất dễ dàng – là một trong những môi trường đặc biệt cho ta kinh nghiệm thế nào là lệ thuộc, là giới hạn, vì qua tính dục ta thấy mình bị người khác thu hút và mình không phải là tất cả nhân loại. Làm đàn ông là phải nhìn nhận mình không thể là đàn bà, và ngược lại. Sự giới hạn mà tính dục nhắc nhở cho ta chắc hẳn Ađam và Eva đã thấu hiểu (c.25), nhưng đồng thời đó cũng là một thử thách, vì qua đó giấc mơ toàn năng của ta đã bị giới hạn. Bởi vậy chỉ cần một yếu tố nhỏ xíu thôi thử thách ấy cũng lập tức trở thành một cơn cám dỗ. Chút xíu đó con rắn, loài vật tinh ranh nhất, đã tìm cách đưa vào. Nó đem những hứa hẹn nảy sinh từ những dấu vết mà thế giới hỗn hợp thuở khai sinh còn để lại nơi ta mà loè mắt người đàn ông và người đàn bà ấy, như sau này Xatan đã làm với Đức Giêsu (Lc 4).

    Con rắn gặp người đàn bà trước. Nhiều người tự hỏi tại sao lại gặp người đàn bà trước, chứ không với Ađam. Có người cho rằng đó là do ảnh hưởng của một xã hội có khuynh hướng đề cao nam giới như xã hội tác giả viết thuật trình này. Điều đó không phải là không có thể xảy ra. Nhưng tôi thiết tưởng nên coi chi tiết đó là một cách trình bày đúng theo lô-gíc của bản văn. Quả thế, thuật trình về sự sáng tạo giới thiệu người phụ nữ là chóp đỉnh công trình sáng tạo, vì hành vi sáng tạo của Thiên Chúa chỉ thật sự hoàn thành khi Eva được dựng nên. Vì thế, nếu phạm tội là hạ cấp công trình sáng tạo thì theo lôgíc quá trình ấy phải bắt đầu từ chóp đỉnh của công trình sáng tạo tức là người phụ nữ, rồi dần dần mới đụng đến các thành phần khác của thế giới thụ tạo…

    Như thế, con rắn sẽ cám dỗ người phụ nữ phạm tội trước. Muốn vậy, nó sẽ bóp méo lệnh cấm của Thiên Chúa bằng cách gán cho lệnh cấm ấy những mức độ đòi hỏi mà Tạo hoá không đòi buộc. ‘Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn TẤT CẢ các loại cây trong vườn’ (c. 1b).Như thế là gián tiếp bảo rằng Thiên Chúa tạo hoá mà con người hằng ao ước là một Thiên Chúa hay làm cụt hứng một cách tàn nhẫn, vì từ nay mọi trái cây đều bị cấm, có nghĩa là không có ước vọng nào của họ được thoả mãn hết. Cơn cám dỗ của con rắn với Eva theo tôi là một cơn cám dỗ mà tôi thường gặp thấy trong kinh nghiệm mục vụ của mình. Biết bao lần tôi được dịp gặp gỡ nhiều người, nhất là các tu sĩ nam nữ, có cảm tưởng như mình đang phải sống trước mặt một Thiên Chúa hay làm mình cụt hứng. Chẳng hạn, mới đây có một nữ tu nói với tôi: ‘Chúa đã tạo nên con với những ước muốn dục tính, nhưng Ngài lại cản không cho con thoả mãn những ước muốn ấy qua lời khấn độc thân. Chúa đã tạo ra con với những ước muốn chiếm hữu, nhưng Ngài lại cản không cho con thoả mãn những ước muốn ấy qua lời khấn nghèo khó. Chúa đã tạo nên con với những ước muốn chỉ huy, nắm quyền, nhưng Ngài lại cản không cho con thoả mãn ước muốn ấy qua lời khấn vâng phục. Chúa đã tạo nên con với bản năng gây hấn, nhưng Ngài lại cản không cho thoả mãn bản năng ấy khi đòi con phải sống hiền lành theo Tin mừng, phải yêu thương thù địch, phải đưa cả má trái khi bị người ta vả má phải. Dứt khoát Thiên Chúa là một nhân vật có tính bạo dâm vì đã tạo nên con với những ước muốn nhưng lại không cho con thoả mãn chúng’. Nghe những lời lẽ này, ta có dịp thấy lại chiến thuật của con rắn ngày xưa là phóng đại những lệnh cấm của Thiên Chúa. Thật vậy, cám dỗ thường xuất hiện khi ta phóng đại những lệnh cấm ấy. Tôi nói phóng đại vì trong thực tế - để suy nghĩ tiếp về những điều tôi vừa nêu ra trên đây – Chúa không bao giờ cấm thực hành tính dục, quyền bính, tiền bạc, sự tự vệ. Người chỉ đòi chúng ta không được lạm dụng tính dục, sự tự vệ, và tất cả chỉ vì chúng ta.

    Bây giờ chúng ta hãy tiếp tục đọc lại thuật trình của sách Sáng thế. Trước những lời bóng gió của con rắn, người phụ nữ bắt đầu a dua theo âm mưu của con rắn: bà cũng phóng đại lệnh cấm của Thiên Chúa khi nói: ‘Thiên Chúa bảo chúng tôi: các ngươi không được ăn trái cây biết lành biết dữ và không được đụng đến trái cây ấy’. Thế nhưng Chúa đâu có cấm họ sờ mó trái cây ấy (St 2,17). Trong phản ứng của Eva ta thấy lại một quy luật tâm lý cổ điển: khi muốn phạm luật, người ta thường có khuynh hướng nhấn mạnh hơn tới lệnh cấm để che đậy sự lỗi phạm của mình. Làm thế để tự bảo vệ mình, một cách khá là nguỵ tín. Thế nhưng chính khi không còn thành thật với ước muốn của mình, người ta đã vô tình đẩy sự vi phạm của mình đi xa hơn mình tưởng.

    Lúc này người phụ nữ không còn lưu ý tới những hậu quả nghiêm trọng kèm theo những lệnh cấm của Thiên Chúa. Con rắn bảo: ‘Ông bà sẽ không chết. Nhưng vì Thiên Chúa biết rằng ngày nào ông bà ăn trái này, mắt ông bà sẽ mở ra, ông bà trở nên như thần thánh biết lành biết dữ’. Con rắn quả là đã bắt được đúng điều căn bản: mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ chỗ không nghe theo Lời Chúa. Điều nó đề ra cho ông bà ở đây là họ sẽ mở mắt thấy mọi sự bằng cách thôi không tin vào lời đấng Tạo hoá nữa. Đây là một cám dỗ rất quen thuộc trong Kinh thánh: cám dỗ con người thôi đừng TIN vào Lời Chúa nữa để được THẤY. Vì tin là buông mình theo lời của người khác, là chấp nhận không biết một cách nào đó. Ngược lại, chỉ đòi thấy là chỉ tin vào sự hiện diện có tính cách sự vật của người khác. Thế nên Gioan đã không ngần ngại tuyên bố: ‘Phúc cho ai không thấy mà tin’ và đã liên kết đức tin với điều trông thấy khi kể chuyện ông đi đến mộ Đức Giêsu và thấy…một sự trống rỗng (Ga 20,8). Một điều đáng lưu ý là trong câu chuyện kể lại việc quá phạm của Ađam-Eva, tác giả liên kết lời hứa cho thấy hết với lời hứa cho biết toàn diện hay lời hứa cho được làm chủ được mọi lệnh cấm.

    ‘Mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở thành thần thánh’. Một lần nữa người ta được hứa hẹn sẽ có sức mạnh vạn năng của thần thánh. Xatan rủ con người bước ra khỏi thân phận loài người, tiến vào kiếp siêu nhân, một sự thần hoá giả tạo phi nhân. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, sẽ lật ngược nỗ lực không ngừng ấy của loài người tội lỗi, bằng cách chấp nhận trở thành người và vì tình thương chấp nhận chết để liên đới với những con người bị khai trừ khỏi xã hội (Lc 4,1-13; Pl 2,6-11). Sự lật ngược ấy, Đức Giêsu sẽ nhắc lại cho các môn đệ Emmau hiểu (Lc 24,16).

    Sau cùng, người phụ nữ đã đầu hàng cơn cám dỗ. Bà lợi dụng sự liên đới giữa mình với người đàn ông để lôi kéo ông cũng từ bỏ không tin vào Lời Chúa nữa. Lúc ấy mắt họ mở ra (c.7). Nhưng có thể nói mắt họ mở ra để thấy sự giới hạn của mình thật to lớn, sự bất lực hoàn toàn của mình không thể thực hiện những hứa hẹn của thế giới xa xưa hằng ám ảnh họ: ‘họ mới biết mình đang trần truồng’. Tưởng rằng vi phạm lệnh cấm là được mở mắt thấy sự toàn năng của mình, nhưng ngược lại nó chỉ cho họ thấy có sự khác biệt giữa hai bên. Sự trần truồng được nhắc tới trong thuật trình này nhằm diễn tả điều đó. Quả thật, như đã nói trên, biết mình trần truồng trước phái tính kia là biết có sự khác biệt hoàn toàn về tính dục giữa hai bên; biểu lộ qua sự khác biệt bên ngoài giữa hai thân xác. Thế nhưng nếu biết chấp nhận lệnh cấm là giúp hai người sống thoải mái tự nhiên với sự khác biệt ấy (St 2,25) thì ngược lại tội lỗi làm hai người không muốn nhìn nhận sự khác biệt ấy, dù ý thức rõ điều đó. Đây là một cách hiểu câu 7b: ‘Họ mới kết lá vả làm khố che thân’. Làm như thể cứ che đi thì không còn khác nhau về tính dục nữa! Cặp vợ chồng đầu tiên ấy như muốn nói: ‘Chúng tôi quá biết hai chúng tôi khác nhau về tính dục, nhưng ta hãy che đậy điều ấy đi để không còn thấy sự giới hạn mà nó làm chúng tôi nhớ tới’. ‘Tôi quá biết con người bị giới hạn. Tôi dứt khoát chỉ là loài thụ tạo: Nhưng dầu sao tôi vẫn có thể trở thành Chúa, còn nếu như không thể được thì ít là tôi sẽ che giấu đi sự giới hạn của mình’.
    Nhân tiện tôi cũng xin mở ngoặc lưu ý các bạn là việc mở mắt của hai ông bà ở đây cũng sẽ diễn ra trong một câu chuyện khác của Kinh thánh mà ai cũng biết, đó là câu chuyện của hai môn đệ Emmau (Lc 24). Hai môn đệ này cũng cứ loay hoay trong giấc mơ của mình là mơ được vạn năng, vì theo họ, Đức Giêsu sẽ giải quyết hết mọi sự như trong một phép lạ. Thế mà Đức Giêsu ấy đã phải chịu chết và thất bại. Rồi Đức Giêsu ấy hiện ra nhắc nhở họ (bằng cách giải thích sách Luật và Các ngôn sứ) lệnh cấm của Thiên Chúa buộc mọi người phải chấp nhận sự giới hạn của mình. Chỉ sau khi kéo họ lưu ý lại Lời Chúa như thế, Đức Giêsu mới mời họ ăn, như Xatan đã mời Ađam-Eva ăn. Tuy nhiên thay vì ăn là một cách vi phạm luật cấm của Thiên Chúa, Người đã giúp hai môn đệ Emmau biến cái ăn ấy thành nơi gặp gỡ Nước Trời. Mắt họ mở ra nhưng mở ra để thấy sự khác biệt cơ bản giữa Thiên Chúa và loài người. Ngay sau đó Đức Giêsu lập tức biến mất để làm họ đừng quá cậy dựa vào điều mắt thấy. Một lần nữa thấy Đức Giêsu là đồng thời nhận ra sự thiếu hụt, trống trọi để từ đó phải lấy đức tin mà bù lại.
    Để kết thúc phần giải thích thuật trình về sự quá phạm của Ađam-Eva, ta hãy nhìn xem những hậu quả của tội. Vì tội phá hỏng sự hài hoà giữa điều khác và điều giống, nên lãnh vực nào (lẽ ra trong đó có sự phối hợp hài hoà giữa cái khác và cái giống) cũng đều trở nên xấu đi do tội lỗi ấy gây ra. Chẳng hạn từ nay sự khác biệt giữa ta với Thiên Chúa trở nên tai hại, khó chấp nhận vì Ađam và Eva bỗng trở nên sợ Thiên Chúa (St 3,8). Cần phải được cải tạo giáo dục lại, con người mới hiểu được đã yêu Thiên Chúa trọn vẹn thì không còn sợ hãi nữa (1Ga 4,18). Cũng thế, từ nay sự khác biệt giữa người đàn ông và người đàn bà trở nên tai hại, khó sống. Thật thú vị khi đi theo logíc của câu chuyện: trước đây người đàn bà đã coi xương sườn của Ađam, người đàn ông, là nguồn gốc của mình. Nhưng từ nay, tội lỗi làm hỏng cả mối quan hệ giữa người đàn bà với nguồn gốc đó: câu 16b cho thấy người đàn bà sẽ phải chịu đựng sự cậy quyền của người đàn ông và sẽ thấy thật khó sống mối quan hệ với con cái mình, dù mình cũng là một trong những nguồn gốc của chúng. Người đàn ông biết nguồn gốc mình là ở đất. Nhưng quan hệ giữa người đàn ông với đất đai trở nên khó sống vì theo câu 17 sau khi phạm tội, người đàn ông phải vất vả và chịu đựng việc lao động với đất đai.
    Như vậy, như tôi đã nói, tội là một sự phá hỏng cơ cấu của thế giới, một hình thức làm xuống cấp công trình sáng tạo. Chính vì thế, tội lúc nào cũng vừa là sự xúc phạm đến Thiên Chúa vừa là sự xúc phạm đến con người và vũ trụ.

    V. TỔNG KẾT:
    VÀI HỆ LUẬN RÚT RA TỪ VIỆC GIẢI THÍCH St 2 – 3 TRÊN ĐÂY
    - Mọi tội lỗi đều bắt đầu từ chỗ không chú ý lắng nghe Lời Chúa. Điều này thấy rõ qua thái độ của Eva khi đứng trước những đề nghị của con rắn. Chính vì thế, sau này Tân ước khẳng định: ‘nếu anh em không muốn sa chước cám dỗ, thì hãy tỉnh thức và cầu nguyện’ (Mt 26,41). Vì cầu nguyện là không ngừng làm cho mình nhớ tới những kỳ công Chúa đã thực hiện. Còn tỉnh thức là đặt mình trong tư thế luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận Lời Chúa.
    - Nguồn gốc của tội thường nằm ở chỗ bóp méo những ý định của Thiên Chúa, nghĩa là thường là do sự dối trá. Thánh Gioan sau này còn dám khẳng định: ‘ma quỷ là cha đẻ của sự dối trá’ (Ga 8,44). Bóp méo những ý định của Thiên Chúa về con người là để mình bị lôi kéo vi phạm luật Chúa, vì như đã nói trên đây, lúc đó người ta coi Thiên Chúa như một nhân vật chỉ muốn con người chết, đang khi kỳ thật lúc nào Ngài cũng muốn con người sống.
    - Tội là một hành vi đi tắt bằng cách sử dụng những trung gian nhân loại. Ta có thể thấy rõ điều này khi đọc lại thuật trình về 3 cơn cám dỗ của Chúa Giêsu (Lc 4). Cám dỗ thứ nhất là muốn tiết kiệm lao động mà vẫn có bánh ăn. Cám dỗ thứ hai là muốn tiết kiệm thời gian, không muốn mất giờ: theo Xatan, Đức Giêsu có thể có được mọi thứ ngay lập tức nếu chịu quỳ lạy Xatan. Và cám dỗ thứ ba là muốn tiết kiệm hay muốn khỏi chết và thất bại: Xatan cho Đức Giêsu biết rằng Ngài có thể không bị chết khi nhảy từ nóc đền thờ xuống. Cả 3 cám dỗ này đều xuất phát từ một giấc mơ hằng ám ảnh mỗi người chúng ta. Đó là mơ tái tạo lại thế giới nguyên thuỷ, mà trên đây tôi đã có dịp minh hoạ bằng hình quả trứng.
    - Cuối cùng, tội nào cũng là hành vi biểu lộ ý muốn làm xuống cấp công trình sáng tạo, nghĩa là muốn làm người khác thay đổi thay vì cứ tôn trọng sự khác biệt của họ, muốn lùi về lại với tình trạng bất phân định thuở ban đầu. Như vậy, tội là hành vi chôn vùi sự hoà điệu của thế giới. Và bởi đó tội là nguồn đẻ ra biết bao sự trục trặc làm cho con người phải đau khổ. Nếu vậy, tội nào cũng đưa cái chết vào trong thực tế. Không hẳn lúc nào cũng là cái chết về mặt sinh vật. Nhưng là cái chết trong những quan hệ nhân bản. Và do đó, tội cũng là một hành vi xúc phạm đến ý định của Thiên Chúa: Người chỉ muốn thấy con người sống sung mãn.
    - Tội nào cũng là hành vi biểu lộ ước vọng muốn vượt qua thân phạn thụ tạo để tìm cho được sức mạnh vạn năng. Tai hại hơn là đôi khi người ta còn dùng chính Lời Chúa một cách sai lạc để thực hiện điều đó. Như trong cám dỗ của Đức Giêsu ở Lc 4,10: Xatan dùng lời Thánh vịnh 91 để thúc Đức Giêsu tránh né những giới hạn của con người, nhất là tránh né cái chết.
    - Nếu dựa vào St 2 – 3, ta sẽ thấy trong các khuynh hướng ăn sâu vào con người chúng ta luôn luôn có một cái gì đó rất tốt để giúp cho các cám dỗ được nảy sinh. Đặc biệt là qua 3 ước muốn sau đây:
    Trước hết là ước muốn ở miệng, muốn tiêu thụ. Đây là một điều đáng cho ta suy nghĩ vì chúng ta đang sống trong một xã hội mệnh danh là xã hội tiêu thụ, làm ta có cảm tưởng rằng hạnh phúc là do ta có được những của cải để làm thoả mãn các khát vọng của mình. Nếu vậy, thuật trình trên đây của sách St đúng là một lời chỉ trích tổ chức xã hội của chúng ta ngày nay.
    Thứ đến là muốn thấy và muốn biết. Đây cũng là những ước muốn ám ảnh con người hiện nay. Đây chỉ là một dấu hiệu cho thấy điều đó: Ngày nay ta rất hay nghe dân chúng nói ‘điều đó chưa rõ lắm’. Làm như con người không thể sống hạnh phúc được nếu không được tận mắt nhìn thấy. Thế mà theo tư tưởng của khoa nhân loại học và tư tưởng của Kitô giáo, sống còn là tin vào người khác, vượt lên trên những bằng chứng hiển nhiên, sống là biết lắng nghe dù không hiểu hết.
    Cuối cùng, muốn nghe, nhưng chỉ muốn nghe những gì khuyến khích ta đi tìm sự vạn năng. Ở đây, một lần nữa Kinh thánh lại lật ngược những khuynh hướng tự nhiên của chúng ta, khi cho thấy rằng trước hết phải lắng nghe Lời Chúa và Lời Chúa kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe những người thấp bé nhất trong xã hội, những người bị khai trừ khỏi xã hội. Lời ấy đã được đúc kết lại trong mối phúc thứ nhất: ‘Phúc cho những ai nghèo khó’.
    - Cứ như St 2 và 3 mô tả, đành rằng khi phạm tội con người tỏ ra có một khả năng phá hoại rất lớn. Nhưng rất cuộc, đó cũng chỉ là khả năng có hạn vì trong câu chuyện huyền thoại đó con người không phải là nguồn gốc duy nhất của sự dữ. Trước mặt con người đã có con rắn, một tạo vật của Thiên Chúa, kẻ đã bóp méo lệnh cấm của Thiên Chúa. Nói như thế có nghĩa là sách St cũng công nhận con người có phần nào không hiểu được sự dữ. Sự dữ vẫn mang tính chất phi lý. Nhưng nếu không còn phi lý thì sự dữ có còn là sự dữ nữa không?

    IV. CUỐI CÙNG PHẢI HIỂU TỘI NGUYÊN TỔ NHƯ THẾ NÀO?

    1/ Chữ ‘tội’, hiểu theo nghĩa chặt, là một hành vi tự ý đoạn tuyệt với Thiên Chúa, và vì thế không hợp lắm để chỉ tình trạng bẩm sinh của hết mọi người. Truyền thống Hy lạp cũng không dùng kiểu nói ‘tội thọ sinhh’ (‘péché originé’, phân biệt với ‘péché originant’, là tội của Tổ tông, sinh ra tình trạng tội lỗi của ta). Vì thế, theo gương các nhà thần học Công giáo nghiêm túc nhất, chúng ta chỉ dùng chữ ‘tội’ theo nghĩa loại suy để chỉ tình trạng bẩm sinh của mọi người.
    2/ Hiển nhiên ta không được quan niệm tội thọ sinh hay tình trạng tội bẩm sinh như một thứ vết nhơ hay như một dấu vết di truyền qua đường sinh đẻ, dù tự nhiên ta vẫn thấy quan niệm như thế có ích phần nào!
    3/ Khi phạm tội, mọi người ngày nay đều thấy lại nơi đó đôi chút kinh nghiệm của Ađam – Eva ngày xưa, được mô tả trong St 3. Nói khác đi, tội tác sinh (‘péché originant’) hay hành vi tội lỗi của Ađam – Eva như đang diễn lại nơi mỗi người chúng ta. Nhưng khác với những người nguyên thuỷ chúng ta phạm tội từ một tình huống khác; đó là khi sự dữ đã thành hình rõ rệt trong xã hội, do tội của những người đi trước chúng ta.
    4/ Ngày nay, nhiều nhà thần học (như Schoonenberg) gọi tội thọ sinh là tình trạng bất lực căn bản của hết mọi người khi sinh ra, bất lực để định hướng cuộc đời mình bằng cách có một sự lựa chọn căn bản phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. Tình trạng bất lực ‘có tính cơ cấu’ này phát sinh do con người không bao giờ sống cô độc một mình. Ngay trong cơ cấu căn bản của mình, ai cũng đòi phải lệ thuộc một mạng lưới phức tạp gồm những quan hệ xã hội khác nhau. Thế mà trong mạng lưới làm nên con người đó đã có tội lỗi.Thứ tội này, thánh Gioan gọi là ‘tội thế gian’ (Ga 1,30; 1Ga 5,19). Như vậy theo giáo lý về tội nguyên tổ, nếu nhìn thế giới theo đúng lôgíc của nó, vì toàn bộ tội lỗi của nhân loại và dĩ nhiên của cả Tổ tiên nhân loại trong đó, thế giới ấy không còn hướng về Đấng Tạo hoá và tiếng gọi Tình yêu của Người một cách tự nhiên nữa. Cụ thể (Thánh giá Đức Kitô nhắc ta điều này) là cứ theo lôgíc của một thế giới đã bị ảnh hưởng bởi tội nguyên tổ như thế, người ta sẽ luôn luôn tìm cách lên án người vô tội, khai trừ người bạc phận và tệ hơn nữa, dùng Lời Chúa để làm vong thân con người bằng cách kéo con người ra xa Thiên Chúa thật.
    Tuy nhiên ta đừng quên rằng theo thánh Phaolô đằng sau sự liên đới của mọi người trong tội còn có một điều quan trọng hơn là mọi người đều liên đới với nhau trong ơn cứu độ của Đức Giêsu – Kitô. Nhờ Ađam mới là Đức Kitô và nhờ Chúa Thánh Thần, Người đã ban cho ta , mọi người đều có thể định hướng trở lại để quay về với đúng kế hoạch của Thiên Chúa, kế hoạch duy nhất có khả năng nhân bản hoá mọi sự. Vì thế, Phaolô xác tín rằng: quyền năng của Đức Kitô mạnh hơn quyền năng gây ra chết chóc của tội lỗi: ‘Ở đâu tội càng nhiều, ở đấy ân sủng càng chan chứa’ (Rm 5,20); ‘Ôi thần chết, chiến thắng của ngươi đâu?’ (1Cr 15,55).
    5/ Có thể xem khái niệm ‘tội thọ sinh’ (tình trạng tội bẩm sinh) đồng nghĩa với một khái niệm đang phổ biến hiện nay là tội tập thể không? Tôi xin thú nhận là tôi chưa thấy rõ vấn đề ấy. Tuy nhiên có thể trả lời vừa có vừa không.
    , nếu hiểu ‘tội thọ sinh’ là một cơ cấu chi phối con người trong xã hội. Theo nghĩa này, tội thọ sinh là thân phận chung, là tình trạng tội lỗi chung, nghĩa là tình trạng con người khước từ Thiên Chúa và vì thế chính bản thân mình bị vong thân. Tình trạng ấy mỗi lúc lại trầm trọng thêm do những hoàn cảnh tội lỗi của mỗi cá nhân trong một cộng đoàn hay xã hội nào đó.
    Không, nếu hiểu ‘tội thọ sinh’ là một tình trạng có từ khi mới sinh ra. Để tránh mơ hồ có thể gây hại, ta phân biệt: tội tập thể trước hết là một hành vi đoạn tuyệt với Thiên Chúa của cả một tập thể vào một thời điểm nhất định nào đó trong lịch sử. Chẳng hạn, khi cả một tập thể nọ cố tình không tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống lại một hình thức phân biệt chủng tộc, đây chính là tội tập thể. Trong trường hợp này, có thể nói tội tập thể là mặt trái của sự hiệp thông các thánh, mỗi người đồng loã để quay về sự vong thân của cộng đoàn . Đó là trường hợp dân Israen thờ bò vàng ngày xưa (Xh 32). Tuy nhiên, đừng quên rằng nếu là một hành vi phạm tội, tội tập thể không bao giờ có, khi cá nhân đã không đích thân đưa ra một quyết định nào đó tự mình. Như thế, nếu hiểu cho chặt, tội tập thể luôn luôn là do các tội cá nhân kết hợp lại, dù tội tập thể không phải là tổng cộng các tội cá nhân, và có mặt một cách đặc biệt trong xã hội. Vì thế không thể dùng khái niệm tội tập thể để phủ nhận hay làm gia tăng quá đáng trách nhiệm bản thân của mỗi người. Nhìn nhận có tội tập thể, là đồng thời nhìn nhận những trách nhiệm riêng của mỗi người trong việc tạo ra tội ấy. Nếu vậy khi dạy giáo lý và cử hành các nghi thức sám hối, phải tránh gây ngộ nhận đó bằng cách hãy chọn những từ ngữ khác nhau để nói về những hành vi kéo theo trách nhiệm của cá nhân hay của cộng đoàn (hoặc và của cộng đoàn), và để nói tới những tình trạng chung do các hành vi ấy gây ra. Mỗi Kitô hữu phải phân biệt rõ ràng điều đó để có thể nhận định về lòng trung thành của mình đối với Chúa.


    Tác giả: Xavier Thévenot
    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  8. Có 3 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


  9. #5
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO VỀ TỘI - phần 1

    CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO VỀ TỘI

    Trong phần cuối cùng này chúng ta sẽ xem xét vài điểm mốc rút ra được khi nhìn tội theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, để có thể nắm được nét độc đáo của quan niệm đó, và để tránh những sự lẫn lộn có thể có giữa các hình thức tội, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát nguồn gốc sinh ra ý thức về tội. Lúc đó ta sẽ thấy rõ khái niệm tội là một khái niệm rất độc đáo và chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi xét trong quan hệ của con người với Thiên Chúa.

    I. VÀI SUY NGHĨ VỀ Ý THỨC TỘI
    Ý thức về tội là gì? Đó là một thực tế bên trong tâm lý làm cho lương tâm ta có cảm tưởng như bị một sức mạnh gì đó đè nặng, ta cảm thấy như có một vết thương do sự hối hận dày vò gây ra và có cảm tưởng như đang đứng trước một toà án nội tâm chờ nghe xét xử và chịu phạt. Chính vì thế, ý thức về tội luôn luôn có kèm theo một tiếng gọi nội tâm kêu mời ta sửa chữa. Các nhà tâm lý học, nhất là các nhà phân tâm, rất lưu ý tới nguồn gốc phát sinh ra ý thức về tội. Một số người đã cho biết ý thức ấy có một nguồn gốc rất xa xưa: ý thức ấy có liên hệ với những cảm giác dễ chịu hay khó chịu mà đứa bé nào cũng cảm thấy khi chào đời được ít tháng. Tuy nhiên, nhiều vị khác cho rằng ý thức ấy chỉ có khi con người biết rằng mình đã không đáp lại một ước muốn của người khác, một ước muốn có giá trị như một mệnh lệnh, một quy luật. Trong trường hợp đó, ý thức về tội chẳng qua chỉ là một hình thức biểu hiện sự lo âu vì chẳng những không còn được đối tượng của mình yêu thương mà thậm chí còn bị công kích nữa. Một nhà phân tâm nổi tiếng là bà Mélanie Klein đã tiến hành các nghiên cứu của mình theo chiều hướng đó. Theo bà, ý thức về tội bắt đầu xuất hiện là do đứa trẻ vừa khao khát chiếm lấy mẹ vừa sợ bị trả thù.
    Còn Freud cho rằng ý thức về tội chỉ có mãi sau này, khi đứa trẻ bước vào thời kỳ mặc cảm Oedipe. Trong thời kỳ này (từ 3 đến 6 tuổi) đứa trẻ bước vào một trò chơi rất phức tạp: quan hệ với cha mẹ vừa yêu thương vừa chống đối nó. Sự xuất hiện của người cha và những lời cấm đoán của ông làm đứa trẻ hiểu rằng nó phải vĩnh viễn rời bỏ đối tượng yêu thương đầu tiên của mình, tức là mẹ nó. Sự cấm đoán căn bản của người cha đó, cùng với nhiều sự cấm đoán khác của cha mẹ và văn hoá, sẽ được đưa sâu vào nội tâm đứa trẻ, làm thành một hệ thống giám sát mà Freud gọi là siêu ngã. Hệ thống này hoạt động theo 2 cách. Trước hết như một toà án sẵn sàng kết tội; và như một lý tưởng đề ra cho đứa trẻ. Nếu vậy, theo Freud, tội chẳng qua chỉ là nỗi lo sợ khi đứng trước cái siêu ngã đang tìm hết cách đè nén xuống các ước muốn bị các nhà giáo dục cấm đoán đề ra. Như thế, ý thức về tội là một cách cho thấy nỗi lo lắng về hình phạt cũng như lo sợ bị người yêu bỏ rơi.
    Có nhiều điểm trong lý thuyết này đáng lưu ý.
    Trước hết, Freud nhận xét có thể có ý thức về tội một cách vô thức: một kiểu nói hơi lạ vì làm sao đã có cảm thức hay ý thức mà còn vô thức? Thật vậy, đương sự có ý thức về một ‘vết thương day dứt’ nơi tâm hồn mình hay một sự khó chịu nào đó trong tâm lý. Nhưng đương sự không ý thức rằng sự khó chịu ấy là do tội mình. Thậm chí trong những trường hợp tâm bệnh, nhiều người bị ‘vết thương’ ấy dày vò đã cố tình làm một hành vi phạm pháp chỉ nhằm mục đích làm sao để thấy được nguyên nhân đã khiến mình bất an. Lúc đó, thật ngược đời, tình trạng có tội lại là nguyên do đưa đến tội!
    Thứ đến, ý thức về tội có chiều kích xã hội ở chỗ văn iminh xã hội thường lợi dụng tình trạng con người tự chống đối mình để bảo vệ sức mạnh của xã hội trong chừng mực có thể chấp nhận được. Đây là điều có lẽ ta hay thấy trong cuộc sống: chính áp lực xã hội đã góp phần làm tăng ý thức về tội nơi ta và như thế đã quay tính gây hấn của ta chống lại ta thay vì hướng ra ngoài.
    Sau cùng, - đây cũng là đều quan trọng đối với những suy tư của ta về tội – tình trạng lo âu về tội không trực tiếp hướng ta tới người khác nơi chính bản thân họ. Mà đúng hơn, nó phản ảnh một cuộc xung đột trong chính nội tâm của ta. Có thể nói, tình trạng có tội như đang diễn ra trước tiên giữa tôi và chính bản thân tôi. Chính vì thế, các nhà tâm lý cũng như các bậc thầy tu đức thường lưuy ý: trong ý thức tội hay tình cảm hối hận vẫn còn dấu vết khá đậm của sự tự ái.

    II. TỘI: MỘT Ý NIỆM THẦN HỌC
    Đặc điểm của ý thức về tội như vừa mô tả hệ tại ở chỗ, đó là một thực tại thuần tuý bên trong tâm lý, nghĩa là tha nhân (anh em tôi hay Thiên Chúa) chỉ xuất hiện trong ý thức đó dưới hình thức là một đối tượng đã được đưa vào nội tâm, không cần biết bên ngoài tha nhân ấy có hiện hữu thật sự không.
    Quan điểm của Kitô giáo về tội đi ngược hẳn quan niệm vị kỷ ấy (lấy cái tôi làm trọng tâm). Quả thế, Mạc khải dạy rằng tội không phải là ‘chuyện’ giữa tôi với bản thân tôi, mà là một thực tại có đụng chạm trước tiên tới ’Người khác’, Người khác này là chính Thiên Chúa. Như vậy, ý niệm tội là một ý niệm thần học đúng nghĩa. Tội là một thực tại có Chúa làm trung tâm (théocentrique), hay đúng hơn, là một thực tại đẩy Chúa ra khỏi trung tâm (théo – excentrique), vì khi phạm tội người ta tìm cách đẩy Chúa ra khỏi trung tâm. Ta hãy giải thích điều này.

    A. Tội là đối tượng của mạc khải
    Tội là một thực tại liên hệ đến quan hệ của ta với Chúa. Nói cách khác, giả như không có Thiên Chúa thì cũng không có tội đúng nghĩa, mà chỉ có những lỗi đi ngược lại các đòi hỏi luân lý, là những con đường giúp người ta làm cho mọi sự trở nên nhân bản.
    Như vậy, phải coi tội như một sự xâm phạm tới quan hệ giữa Thiên Chúa và ta, một hành vi cản trở ta tiếp nhận chính Chúa như Người muốn dâng hiến cho ta được sống. Vì thế, tự bản chất tội là đối tượng của mạc khải, ít ra khi hiểu mạc khải theo nghĩa rộng. Như vậy, nếu ta chỉ biết Thiên Chúa trọn vẹn trong cội nguồn và chóp đỉnh của Mạc khải tức là trong Ngôi Lời nhập thể, thì hiển nhiên ta cũng chỉ biết tội đầy đủ khi nhận biết Đức Giêsu – Kitô. Rốt cuộc hiểu được mức trầm trọng của tội và nắm được sự thật về Đức Kitô là hai việc đi đôi với nhau. Nói đến tội là ta lập tức nhớ tới một Nhân vật khác, một phía khác ta tận gốc, một Thiên Chúa không thể định tên định tuổi, một Thiên Chúa ghen tỵ với mọi ngẫu tượng mà con người đặt lên thay Ngài.
    Trong Cựu ước, người ta đã mau chóng nhìn tội qua một phạm trù rất căn bản, một phạm trù cho thấy rất rõ phía người bên kia: đó là phạm trù Giao ước. Theo Kinh thánh, phạm tội là không chịu trở về với Giao ước của Giavê, dù biết đó là nguồn hạnh phúc của nhân loại, và là hành vi tôn vinh Thiên Chúa rất đẹp. Có liên quan với một tha nhân (= nội dung của ý niệm tội), điều đó còn được Cựu ước diễn tả qua nhiều hình ảnh vay mượn ở nhưng kinh nghiệm của con người về sự thân mật gần gũi với người khác như kinh nghiệm cha con hay mẹ con và đặc biêt, kinh nghiệm vợ chồng.
    Thử đọc một vài bản văn Kinh thánh: Is 64,7-8 mô tả tội là sự vô ơn của con đối với một người cha hằng ưu ái mình; Is 49,15 giới thiệu Thiên Chúa là một nhân vật có một tình yêu như của bà mẹ không thể nào quên đứa con mình đã mang nặng đẻ đau; Hs 2 trình bày tội là sự bất trung đối với tình yêu của một người chồng hết sức yêu thương. Như vậy, ngay từ trong Cựu ước, tội đã ám chỉ một sự xâm phạm tới quan hệ yêu thương giữa hai nhân vật có thể bị xúc phạm.
    Dòng suy tư này sẽ được Tân ước lấy lại và khai triển. Trong Tân ước, rốt cuộc Thiên Chúa đã được gọi đích danh là Tình yêu. Nếu vậy, tội rõ ràng là sự xúc phạm đến Chúa, lang quân của Giáo hội, xúc phạm đến Thiên Chúa Tình yêu. Như thế, chỉ khi nhìn trong ánh sáng tình yêu (điều này, ta chỉ làm được do ơn Chúa Thánh Thần) ta mới thấy hết tầm mức của tội với những hậu quả xa nhất của nó. Tội đúng là đối tượng của mạc khải. Tuy vậy, có điều lạ là ta không bao giờ hiểu biết về tội một cách đầy đủ cả. Điều này có nghĩa gì?

    B. Ta không bao giờ hiểu biết đầy đủ về tội
    Một trong những vấn nạn làm các Kitô hữu bận tâm nhất là: làm sao biết mình đã phạm tội? Đây là một trong những điều nghịch lý lớn nhất trong thần học về tội. Thật vậy, tôi chỉ có thể là tội nhân khi tôi khước từ giao ước với Thiên Chúa, một cách tự do và sáng suốt; khi tôi cố tình và biết rõ mình đang đặt một ngẫu tượng thay thế Chúa. Thế nhưng, Truyền thống cũng luôn luôn khẳng định rằng hành vi tội lỗi nào cũng bị chi phối bởi một hay hai hình thức ngộ nhận về phía chủ thể phạm tội. Và đây chính là sự nghịch lý: một đàng tôi phải biết mình đang phạm tội thì mới gọi là có tội, nhưng đàng khác, tầm hiểu biết của tôi về tội thật giới hạn, không bao giờ đầy đủ cả. Ta hãy tìm hiểu hai hình thúc ngộ nhận và nghịch lý do chúng kéo theo.

    a/ Ngộ nhận phần nào về những hậu quả do tội tôi mang lại và về tầm mức nặng nề khách quan của tội ấy
    Như tôi vừa nói, tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa bằng cách xúc phạm đến tạo vật của Người. Vì thế theo logíc chỉ mình Thiên Chúa mới biết Người đã bị xúc phạm ở chỗ nào, thế nào và tới mức nào. Nói thế có nghĩa là anh em tôi và Thiên Chúa giữ một phần hiểu biết về tội của tôi.
    Thử lấy một thí dụ để thấy rõ hơn những điều ta vừa nói. Giả sử trong khi thuyết trình, tôi muốn công kích một thính giả đang có mặt tại chỗ, bằng cách cố tình đưa ra một lời giễu cợt ác ý nhằm làm người ấy đau khổ; nhưng người ấy lại không chú ý lắng nghe tôi. Rõ ràng ở đây tôi đã phạm tội vì tôi đã cố tình làm khổ người khác. Thế nhưng, có thể lúc tôi buông lời chế giễu, đương sự không hề chú ý và vì thế rất ít cảm thấy bị xúc phạm. Ngược lại, nếu như lời giễu cợt ấy rơi đúng một vùng tâm lý hết sức nhạy cảm, đánh thức dậy những kinh nghiệm bị khiển trách đã từng xô đẩy và vùi dập người ấy hồi còn nhỏ, thì quả thật sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể trong nhân cách của người ấy, một điều nằm ngoài dự đoán của tôi. Và như vậy, phần nào tôi đã không nắm hết tầm mức nghiêm trọng khách quan của hành vi tội lỗi mình vừa làm. Chỉ người bị xúc phạm bởi hành vi ấy mới có thể cho tôi biết mình đã bị thương tổn tới mức nào.
    Như thế, nếu xúc phạm anh em tôi là đã xúc phạm đến Chúa, thì xét cho cùng chỉ Thiên Chúa, đấng bị ‘tổn thương’ trong kế hoạch yêu thương của mình, mới có thể biết đầy đủ về tội của tôi. Bởi vậy, Phaolô đã nói: ‘Chỉ có Chúa là đấng xét xử tôi’ (1Cr 4,4), dù Phaolô biết rằng ‘lương tâm tôi không khiển trách tôi điều gì’.
    Chính vì thế, ta chỉ có thể hiểu hết tầm mức của tội qua trung gian của Giáo hội, nơi cưu mang Lời Chúa. Lời Chúa vốn là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người’ (Dt 4,12). Sau này chúng ta sẽ trở lại với vấn đề vai trò của Mạc khải trong việc khám phá ra tội. Tuy nhiên, ngay bây giờ ta có thể lưu ý là cộng đoàn Giáo hội cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc khám phá đó. Vai trò ấy thường được thể hiện qua hai chức năng tuy liên hệ với nhau chặt chẽ nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau:

    - Chức năng ngôn sứ.
    Chúng ta đã có một thí dụ khá rõ về chức năng này qua câu chuyện thời danh kể lại việc ngôn sứ Nathan dùng một dụ ngôn nhỏ để giúp Đavít nhận ra tội mình (2S 12). Tuy đã phạm tội nặng vì đẩy tình địch vào chỗ chết hầu có thể ngoại tình với vợ người ấy, nhưng Đavít không hề cảm thấy mình có tội. Phải nhờ đến lời lẽ của ngôn sứ Nathan, ông mới khám phá ra hết tầm mức nặng nề của tội mình đã phạm.
    Các ngôn sứ phải luôn luôn phải thi hành chức năng cật vấn ấy trước đám dân Israen và các vua chúa đã chai lì trong tội. Ngày nay, giữa một xã hội có khuynh hướng lẫn lộn lòng từ tâm thương xót với việc cho phép dễ dãi, ta rất cần đọc lại một số đoạn Cựu ước đanh thép, như Ed 3,17-19 chẳng hạn, trong đó thiên Chúa bảo ngôn sứ Êdêkien: ‘Êdêkien, này Ta đặt ngươi làm kẻ trông coi Israen. Nếu ngươi không cảnh cáo người dữ từ bỏ tội ác, chính người dữ ấy sẽ chết, nhưng Ta sẽ đòi máu người ấy nơi ngươi’. Tất cả chúng ta hiện nay, do phép Rửa tội, đã được đặt làm người ‘trông coi’ cộng đoàn Kitô hữu và cộng đoàn nhân loại. Vì thế chúng ta có bổn phận thi hành chức năng ngôn sứ dưới một hình thức nào đó và phải là người loan báo Lời Chúa với tất cả những đòi hỏi của Lời ấy; một lời vừa kêu gọi mọi người quy tụ lại vừa thôi thúc người ta hoán cải. Dĩ nhiên, nếu không muốn gây hại hơn là làm phúc, ta phải loan báo Lời tiên tri ấy với một tâm hồn khiêm tốn và nhất là phải uyển chuyển trình bày tuỳ theo mỗi tình huống cụ thể. Nếu không, thay vì giải thích và thôi thúc người ta tìm về một tương lai mới, Lời ấy lại đè bẹp họ bằng không biết bao nhiêu là đòi hỏi vô phương thực hiện (cf. X. Thévenot, ‘L’aide non directive, une démission éthique?’, trong cuốn ‘Repères éthiques pour un monde nouveau’, Salvator, 1972, pp. 110-122).

    - Việc sử sai huynh đệ (Lc 17,3; Mr 18,15-17).
    Điều này đã được mô tả rõ ràng trong Tân ước: ‘Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy sửa chữa nó’. Bởi vì tội nào cũng xâm phạm tới Thân thể của Đức Kitô, tức là Giáo hội. Thế nên, cộng đoàn có quyền và có bổn phận phải cho các thành viên của mình biết những cung cách sống bị cho là tội lỗi của họ có thể đang cản trở Dân Chúa trong nỗ lực đón nhận Nước Trời. Ở đây, dĩ nhiên cũng phải suy nghĩ cẩm thận về cách sử sai huynh đệ, kẻo việc ấy làm tổn thương hay thậm chí làm hỏng cả những con người đó.. Một số người đã sa ngã vào những tội bất trung đối với các lời cam kết của mình rất có thể đã cải tà quy chánh, nếu trước đó họ gặp được một anh chị em giúp họ thấy rõ vấn đề hơn và ăn năn hối cải. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi xem mình đã thực hiện việc sử sai huynh đệ thế nào và có bao giờ từ chối làm việc này không.

    b/ Ngộ nhận về mức độ trách nhiệm của mình
    Muốn hiểu tại sao phải nêu ra hình thức ngộ nhận thứ hai này, ta cần nhớ lại quan điểm rất trùng hợp với suy tư triết học hiện nay. Thật vậy, Kinh thánh phân biệt tâm hồn với những hành động của con người. Tâm hồn là nơi đưa ra những lựa chọn quyết đĩnh (Mr 22,37; 1Cr 7,37) và gặp gỡ Chúa (Mt 13,19). Tâm hồn hướng bên nào, điều đó được biểu lộ qua những hành động. Tuy nhiên, không có một hành động nào cũng như dù tổng cộng hết các hành động, ta cũng không thể diễn tả hết những gì chất chứa trong tâm hồn. Như thế, tâm hồn và hành động đi đôi với nhau, nhưng vẫn khác nhau và không thể đồng hoá cái này với cái kia một cách trọn vẹn.
    Nói theo triết học hiện đại, tâm hồn là nơi để cho khả năng căn bản tự do của ta đưa ra sự lựa chọn tận căn theo hay chống lại Thiên Chúa, một sự lựa chọn lôi kéo con người chúng ta một cách toàn diện như một đơn vị thống nhất. Thế nhưng sự lựa chọn tận căn ấy chỉ được thể hiện ra ngoài qua những hành vi cá biệt, những hành vi này không thể nào diễn tả hết sự tự do lựa chọn căn bản của ta. Sự tự do trong tâm hồn con người đặt nền tảng cho các hành vi cá biệt, được diễn tả qua các hành vi đó, nhưng đồng thời cũng vượt lên trên những hành vi ấy.
    Theo tôi, phân biệt tâm hồn với hành động như thế sẽ giúp ta hiểu sự phân biệt của Tân ước giữa tội và các tội. Chẳng hạn thánh Gioan hầu như luôn luôn nói đến tội ở số ít (hamartia). Thậm chí ngài còn quả quyết (1Ga 3,4): ‘Phạm tội tức là chống lại luật Chúa’ (anomia), nghĩa là kiêu ngạo khước từ Chúa, khước từ Thiên Chúa cứu độ mình. Còn Phaolô, phỏng theo các tác giả đương thời, ưa đưa ra danh sách các tội (1Cr 6,10). Thế nhưng, ngài cũng cho biết rằng tất cả những tội ấy đều là hậu quả của một tội duy nhất là cố tình từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa Tạo hoá mà trên nguyên tắc, ai cũng có thể nhận ra (Rm 1,18-31 và 5,12-17). Phaolô còn nhấn mạnh tới chữ tội theo nghĩa này, đến nỗi coi đó như một sức mạnh đã được nhân cách hoá.
    Khi tâm hồn ai đó đã bị sức mạnh của tội lỗi uốn nắn, hay nói cách khác qua sự lựa chọn căn bản của mình, người đó đã quay lưng với Thiên Chúa, thì Truyền thống Kitô giáo nói kẻ ấy đã phạm ‘tội nặng’. Đây cũng là trường hợp duy nhất đáng gọi là tội. Còn chữ tội trong kiểu nói ‘tội nhẹ’ đã được dùng theo nghĩa loại suy: đó là một sự tùng phục thánh ý Chúa nhưng chưa trọn vẹn hay là một sự dừng lại trên đường tiến về với Tạo hoá chứ chưa hẳn là đoạn tuyệt với Người. Đa số các Kitô hữu ngày nay cảm thấy khó chịu với kiểu nói ‘tội nặng’ hay ‘tội nguy tử’ (péché mortel), vì thế ta cũng nên suy nghĩ qua về kiểu nói này.
    Theo ý tôi, nếu nói chuyện với những người có khả năng hiểu và tiếp nhận kiểu nói ấy một cách bình tĩnh, không lo lắng thái quá, thì có lẽ phải dùng kiểu nói ấy, vì hai lý do:
    - một lý do rút ra từ Truyền thống. Đành rằng mấy chữ ‘tội nặng’, ‘tội nguy tử’, ‘tội nhẹ’ không có y nguyên như vậy trong Thánh kinh, nhưng trong Thánh kinh thật sự có phân biệt giữa hai loại tội. Chẳng hạn theo Phaolô, có những tội loại ta ra khỏi Nước Chúa (Gl 5,19tt; 1Cr 6,9tt). Cũng thế, thánh Gioan bảo rằng từ chối yêu thương là đã chấp nhận ở lại trong sự chết (1Ga 3,15). Còn Đức Giêsu thì phân biệt cái dằm với cái đà trong mắt người này, người kia. Nhân khi nói về việc thứ tha các lỗi phạm, Người cũng bảo phải cầu xin điều đó mỗi ngày như trong kinh ‘Lạy Cha’. Nếu vậy thì những lỗi phạm này hẳn không trầm trọng lắm! Còn Truyền thống phụng vụ, giáo phụ và thần học rất minh bạch: trái với một số quan điểm giáo lý lệch lạc, Truyền thống luôn khẳng định rằng không phải tội nào cũng giết chết quan hệ giữa ta với Thiên Chúa, nghĩa là có những tội không nặng bằng những tội khác, có những tội nhẹ.
    - lý do thần học: tội là biểu hiện trong thực tế một năng lực giết chết. Như tôi đã nói nhiều lần, quan hệ giữa ta với Thiên Chúa bị giết chết, điều ấy luôn được biểu lộ qua sự tan vỡ trong các quan hệ của con người với nhau.
    Rốt cuộc, phải chăng sở dĩ chúng ta từ chối không muốn dùng hai chữ tội nặng hay tội ‘nguy tử’, là vì chúng ta đang nô lệ một thứ ý thức hệ nổi bật trong xã hội ngày nay, đó là tìm cách che giấu sự chết? Một câu hỏi ít ra rất đáng cho ta suy nghĩ !
    Sau khi suy nghĩ qua về vấn đề tội nặng, ta hãy trở lại với vấn đề của mình, đó là ta có nắm rõ tầm mức sâu xa của trách nhiệm mình đang phải chịu không. Như đã nói, về mặt này ta cũng luôn luôn ngộ nhận. Quả thế, tôi chỉ có thể biết những hành động bên ngoài của mình. Những hành động này lại là kết quả của cả hai thứ một trật: tự do của tôi và những hoàn cảnh sinh lý, xã hội đang chi phối tôi một cách sâu xa. Tôi không bao giờ hiểu được một cách chắc chắn tuyệt đối tâm hồn tôi đang hoàn toàn tiếp nhận và khước từ Nước Chúa. Vì tôi không tài nào phân biệt được một cách chính xác trăm phần trăm cái nào là do tôi đã tự do quyết định.
    Nói như thế, tôi chỉ nhắc lại giáo lý rất cũ của Truyền thống mà thánh Tôma đã tóm tắt như sau: ‘Không ai biết được một cách chắc chắn mình đang sống trong ân sủng hay không’ (S. Th. Ia, IIae, 112,5) (cf. 1Cr 4,4). Công đồng Trentô cũng lấy lại giáo lý đó (Dz 1534. FC, 568): ‘Không ai có thể biết một cách chắc chắn không thể sai lầm rằng mình đã được ơn Chúa’. Một vị thánh lớn như Jeanne d’Arc cũng đã hiểu rõ điều đó nên mới trả lời cho những kẻ tố cáo mình: ‘Quý vị hỏi tôi có đang sống trong tình trạng ân sủng không à? Tôi xin thưa: nếu có thì xin Chúa tha cho tội kiêu ngạo của tôi, nếu không thì xin Chúa hãy cho tôi được như vậy’.
    Như vậy, muốn phê phán tội ta nặng nhẹ tới mức nào, ta đành phải có lời giải thích về những hành vi cá biệt của mình. Những hành vi này sẽ được coi là những dấu hiệu ám chỉ tình trạng của tâm hồn ta. Thánh Tôma đã không ngần ngại dùng từ ngữ ‘ức đoán’ để chỉ sự hiểu biết của ta về tội lỗi. Ngài nói: ‘một người có thể nghĩ rằng mình đang sống trong ân sủng khi thấy mình đang tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa’.
    Nếu như vậy, đi vào cụ thể, làm sao đánh giá mức nặng nhẹ của tội mình đây? Trước khi đưa ra vài dấu chỉ cho biết mình đang mắc tội, theo tôi vài điểm mốc sau đây có thể giúp ta làm việc này:
    Nếu những hành vi tội lỗi tôi đã làm là những hành vi tự nó hay theo khách quan là nặng hay nếu đó là những hành vi hình như tôi đã làm với khá nhiều tự do, thì rất có thể tâm hồn tôi lúc đó đã xa cách Chúa nhiều hay, như các sách giáo lý ngày xưa thường nói, tôi đã không còn ’sống trong tình trạng ân sủng’ nữa. Trong những trường hợp đó tôi biết chắc (sự chắc chắn theo luân lý) mình đã phạm tội nặng, đã phạm tội ‘chết được’, mình đã ao ước và đã thật sự giết chết quan hệ của mình với Chúa.
    Ngược lại, một Kitô hữu cảm thấy ‘mũi nhọn của ý chí mình’ – một kiểu nói của các nhà tu đức – vẫn cắm sâu nơi Thiên Chúa; nói cách khác, một Kitô hữu cảm thấy cuộc sống của mình, xét trong toàn bộ, xét trong sư lựa chọn căn bản, vẫn phù hợp với Tin mừng; những Kitô hữu ấy có quyền tự hỏi phải chăng những ‘sa ngã’ thường xuyên của mình về một điểm nhất định nào đó (một điểm mình tỏ ra yếu đuối thật sự) đã là những lời từ chối tình yêu Thiên Chúa một cách nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, họ có thể tin chắc (chắc chắn theo luân lý) rằng những sa ngã ấy chỉ là những khuyết điểm, chứ không là tội đúng nghĩa, vì xét cho cùng trong những hành vi đó sự tự do sâu xa của họ chưa tham gia thật. Quả thế, không dễ gì lúc nào cũng phạm tội ‘đáng chết’, bởi vì tình yêu Thiên Chúa luôn ‘làm việc’ nơi những người vẫn giữ được sự chọn lựa căn bản tốt đẹp của mình. Vì thế, theo tôi, cuộc đời của những Kitô hữu biết cầu nguyện, liên kết với Giáo hội và vẫn nỗ lực sống yêu thương có lẽ có rất ít tội nặng. Tuy nhiên, tôi xin lưu ý hai điểm:

    a/ Lưu ý thứ nhất dựa vào một đoạn trích trong văn kiện ‘Persona humana’ của Toà thánh đề cập tới khoa đạo đức tính dục (số 10), ban hành năm 1976. Văn kiện này đã có lý khi nhắc lại rằng dù ‘sự lựa chọn căn bản xét cho cùng mới là cái xác định tình trạng luân lý của một người, nhưng sự lựa chọn căn bản ấy có thể bị thay đổi hoàn toàn do những hành vi cá biệt; và thông thường sự viêc ấy được chuẩn bị trước bằng những hành vi hời hợt hơn. Dù sao, đừng cho rằng một hành vi cá biệt thôi không đủ để phạm tội nặng. Vì thế, theo văn kiện này, ‘người ta phạm tội nặng không phải chỉ khi nào hành vi của mình xuất phát từ lòng khinh bỉ trực tiếp đối với Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, mà cả khi vì một lý do nào đó người ta cố tình và tự nguyện lựa chọn một điều đã lệch lạc và sai hỏng nặng nề’. Như vậy bản văn này nhắc ta nhớ rằng có những hành vi quan trọng (có thể xác định ngày tháng dễ dàng) tới mức liên hệ sâu xa tới sự lựa chọn căn bản của ta và báo hiệu sự lựa chọn của ta đã bị thay đổi.

    b/ Điểm thứ hai cần nhớ là ta không bao giờ đoạn tuyệt với Thiên Chúa cũng như giao hảo thân mật với Thiên Chúa một lần là xong.
    Về điều này, nên nhớ lại một lời Cựu ước: ‘Nếu người công chính bỏ sự công chính của mình mà làm điều ác (…), người ta sẽ không còn nhớ tất cả những sự công chính kẻ ấy đã thực hành nữa’ (Ed 18,24). Ngược lại, ‘nếu người gian ác từ bỏ tất cả những tội mình đã phạm (…), nó sẽ không phải chết’.
    Khi khẳng định con người không bao giờ đoạt được cả điều tốt lẫn điều xấu một lần vĩnh viễn, những câu Kinh thánh ấy đã bảo vệ ta khỏi thái độ Pharisêu và tham vọng muốn trở thành kẻ vạn năng về tội ác. Lời Chúa đã đánh tan tận gốc mọi toan tính kiêu ngạo muốn mình được hoàn thiện ngay tức khắc (như Thiên Chúa) hay được xấu xa ngay lập tức (như ma quỷ). Phải, ta luôn luôn có khả năng phạm tội và hoán cải; đó là một lời nhắc nhở rất hay về thân phận hữu hạn của ta!
    Để kết luận, vì hai sự hiểu lầm trên đây có ảnh hưởng đến tội lỗi của chúng ta, nên ta thường thấy thật không thoả đáng lắm khi đòi dò xét cho tới cùng trách nhiệm của con người trong tội. Đôi khi việc dò xét này cũng có lợi cho những người phạm tội: nó giúp những người ấy phân tích kỹ lưỡng hơn những động cơ đã dẫn họ tới chỗ phạm tội, nhất là giúp họ dám chịu trách nhiệm chính bản thân mình hay anh em mình. Nhưng thông thường hơn, công việc dò xét ấy, sự nhận định phê phán về tầm mức tội lỗi của một hành vi phản ảnh thái độ tự ái của đương sự: đương sự tìm cách tự hào trong tình trạng khốn nạn và hèn hạ của mình, hay thậm chí tìm cách bào chữa cho mình trước mặt Chúa. Đàng khác, thái độ ấy gián tiếp cho thấy đương sự nhìn Thiên Chúa thế nào? Đó là một Thiên Chúa rất giống với Thiên Chúa của Cain hay của các thẩm phán tại các phiên toà, tìm đủ cách để vạch ra trách nhiệm của con người hầu áp dụng các hình phạt đã được tiên liệu trước trong các bộ luật hình sự!
    Trong Tin mừng, đọc lại những lần Đức Giêsu gặp gỡ các tội nhân và tha thứ cho họ, ta thấy rõ Đức Giêsu dường như không bận tâm lắm tới việc xưng thú chi tiết tội lỗi. Chẳng hạn khi tha tội cho người bại liệt hay cho người đàn bà ngoại tình, hoặc cho một phụ nữ tội lỗi đến lấy dầu thơm xức chân Chúa. Đối với Người, điều quan trọng không phải là kể lể chi tiết các tội, mà là tâm hồn của tội nhân có nhận ra Người là Đấng thương yêu, Đấng có thể giải thoát ta nhờ tình thương của Người không.


    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  10. Có 3 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


  11. #6
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO VỀ TỘI - phần 2

    III. NHỮNG DẤU HIỆU CHO BIẾT TA CÓ TỘI – SỰ HÀM HỒ CỦA NHỮNG DẤU HIỆU ĐÓ
    Để kết thúc loạt bài tìm hiểu vắn tắt về tội, tôi muốn xem lại một số ‘phương cách’ người Kitô hữu có thể dùng để biết tổng quát mình có còn được Chúa thứ tha vì hành vi này hành vi nọ không, nghĩa là mình đã phạm tội hay chưa. Chúng ta sẽ nhìn lại năm tiêu chuẩn có thể được coi là những dấu hiệu cho biết tình trạng bất hoà giữa ta với Chúa. Nhưng đây cũng chính là điểm khó khăn: mỗi tiêu chuẩn ấy đều có tính cách hàm hồ tận căn. Vì thế mỗi Kitô hữu cần nhận thức rõ mỗi tiêu chuẩn ấy có liên hệ với tội như thế nào.

    1. Dấu hiệu thứ nhất: sự quá phạm
    Qua kiểu nói này tôi muốn diễn tả hành vi một người vượt quá một lệnh cấm, một quy tắc đạo đức hay một luật lệ xã hội. Tội và sự quá phạm có tương quan thế nào, điều này cũng rất khó nói. Tuy nhiên, có thể tóm tắt như sau: tội nào cũng là một sự quá phạm, nhưng không phải sự vi phạm nào cũng là tội.
    Tội nào cũng là một sự vi phạm. Quả thế, như đã thấy ở các bài trướoc, tội là một sự vi phạm lề luật căn bản của cuộc sống do Chúa đặt ra. Ngược lại, không phải sự vi phạm nào cũng là tội. Tại sao? Vì những lý do sau:
    - Trước hết, có thể sự vi phạm của một người nào đó là do vô tình, không cố ý. Người ta sẽ nói: sức lực đẩy người ấy vi phạm ‘mạnh hơn người ấy’. Lúc đó hành vi ấy chỉ là một sự yếu đuối không có tội, dấu hiệu cho biết thân phận hữu hạn của đương sự.
    - Cũng có thể người ấy không biết có luật cấm đó trong lãnh vực này lãnh vực nọ, hoặc người ấy nghĩ rằng vi phạm luật luân lý này luật xã hội nọ không ảnh hưởng gì lắm tới quan hệ của họ với Chúa. Lúc đó ta gặp tình trạng mà các nhà thần học luân lý ngày xưa gọi là ‘vô tri không do mình’. Chẳng hạn, một thiếu niên cả đời lớn lên và được giáo dục trong môi trường Đức quốc xã đinh ninh rằng truy bắt người Do thái là điều đúng, điều tốt. Vì thế khi làm thế, dù đó là một điều rất xấu về mặt khách quan, trước mặt Chúa vẫn không phải là tội vì anh ta không biết mình đang làm điều xấu, do điều kiện xã hội chi phối. Một thí dụ khác: ngày nay nhiều người gian lận thuế khi bị kiểm tra hay khi làm ăn buôn bán không ý thức rằng đó là một đều xấu. Trong những trường hợp đó, quả thật có một điều xấu khách quan đã được thực hiện, nhưng không phải là tội. Dĩ nhiên khi khẳng định nghe theo tiếng lương tâm, dù là lương tâm đã được huấn luyện sai, chẳng những không phải là tội mà còn là bổn phận, thần học không cố ý kêu mời mọi người theo chủ trương phóng túng. Vì cũng chính thần học quả quyết ta có thể phải chịu trách nhiệm về tình trạng sai lầm hay thiếu giáo dục của lương tâm và bằng mọi cách phải luôn luôn lo sao cho lương tâm được sáng suốt như nhờ lắng nghe Lời Chúa, nhờ cộng đoàn Giáo hội và anh em.
    - Cũng có thể một lệnh cấm do xã hội hay kỷ luật Giáo hội đặt ra tự nó đã phi nhân bản. Lúc ấy vi phạm lại là dấu chứng tỏ ta tuân phục Thiên Chúa, ta yêu mến Người. Một thí dụ cho thấy rõ điều này là trường hợp Đức Giêsu vi phạm những lệnh cấm của đạo Do thái quá nghiêm nhặt về việc lao động trong ngày Sabát. Dĩ nhiên những sự vi phạm của Đức Giêsu đối với luật này không phải là tội, mà trái lại còn là dấu cho thấy tình thương Ngài dành cho con người. Cũng chính vì thế Đức Giêsu đã phải nhắc lại luật được làm ra cho con người, chứ con người không sinh ra để cho lề luật. Như vậy, vi phạm đối với một số lề luật của Giáo hôi quá hẹp hòi hay một vài lệnh cấm của xã hội đặt ra không đúng chỗ, có thể hay thật sự là một dấu hiệu nói lên tình yêu thương. Điều đó kêu gọi chúng ta phải kiểm tra lại xem nền tảng của các tiêu chuẩn đạo đức đang có trong Giáo hội và xã hội.
    - Sau cùng, có thể có trường hợp cần vi phạm một lệnh cấm để tôn trọng một lệnh cấm khác căn bản hơn. Đây là trường hợp được các nhà luân lý gọi là xung đột giữa các giá trị. Các đức giám mục Pháp đã đặt vấn đề như thế khi giải thích Tông huấn Humanae vitae của đức Phaolô VI về việc điều hoà sinh sản. Quả vậy, một cặp vợ chồng thường bị đặt trước nhiều giá trị mà họ có bổn phận phải bảo vệ, thế nhưng không phải tất cả các giá trị đó có thể thực hiên được chung một lúc. Vì vậy, phải xếp hạng các giá trị đang xung đột với nhau. Đôi khi để bảo vệ một giá trị tối quan trọng, ta đành phải vi phạm một lệnh cấm thì mới giữ được một giá trị khác. Chẳng hạn các đức giám mục Pháp lý luận: cũng đúng luân lý thôi khi một cặp vợ chồng đành phải sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo nếu thấy đó là phương pháp duy nhất có thể giúp họ bảo vệ sự quân bình trong hôn nhân và gia đình, vì những đều kiện tâm lý hay kinh tế của vợ chồng.
    Dĩ nhiên, khi vi phạm một lệnh cấm của Giáo hội, phải đặc biệt lưu tâm thi hành trách nhiệm Kitô hữu của mình, nghĩa là thực hiện sự tự do thật của một người con Chúa. Tự do này không bao giờ có nghĩa là được phép muốn làm gì tuỳ ý, mà là biết quyết định trong Thánh Thần khi đứng trước tình trạng xung đột ấy. Các tiêu chuẩn để ta biết mình có trách nhiệm hay không đối với sự vi phạm đó, có thể là: đã quyết định trong bầu khí cầu nguyện, có suy nghĩ sâu xa, có tìm cách nhờ một thành phần của Giáo hội (linh mục, bạn bè hay cộng đoàn) xác nhận, và sau cùng luôn giữ sự khiêm tốn tối đa, tới mức có thể cuối cùng sẵn sàng nhìn nhận mình đã sai lầm.
    Như thế, đã có vi phạm, đó là một dấu chỉ hết sức hàm hồ về tình trạng có tội hay không. Nhất là nếu biết rằng ngay từ khi con bé ai trong chúng ta cũng ước muốn được vạn năng và vì thế, như đã nói ở chương hai, ta thường lầm lẫn rất tai hại: lầm lẫn giữa khuyết điểm và tội lỗi.
    Khuyết điểm là sự vi phạm không cố ý đối với một trật tự đã được luật xã hội hay những đòi hỏi luân lý tạo ra. Chẳng hạn: ham uống rượu, thủ dâm, nói lời công kích vì không kiềm chế được… Tất cả những hành vi này đều giống nhau ở chỗ không cố tình cố ý.
    Có thể minh hoạ tình trạng ấy qua lược đồ sau đây:

    Một sự vi phạm (chẳng hạn vả mặt một người khi nóng giận) có thể là kết quả của hai thực tại: hoặc đó là do một quyết định rất tự do của tôi. Trong trường hợp này có thể gọi đó là tội. Hay ngược lại là do sự giới hạn của mình nghĩa là do những hạn chế khiến tôi không làm chủ mình hoàn toàn được. Một số phản ứng của tôi thoát tầm kiểm soát của ý chí, chúng còn ‘mạnh hơn cả tôi nữa’. Trong trường hợp ấy không được gọi những sự vi phạm đó là tội, mà chỉ là khiếm khuyết.
    Thật ra, ta cũng không cần đưa ra sự phân biệt phức tạp này, nếu bản thân con người không bị ám ảnh bởi ước muốn mình được vạn năng, như câu chuyện Ađam – Eva diễn tả một cách bóng bảy qua nỗi thèm khát đuợc ăn trái cấm.
    Làm sao ước muốn vạn năng ấy có ảnh hưởng đến thái độ nhìn nhận hay từ chối mình là tội nhân? Có thể ảnh hưởng bằng hai cách, đôi khi xảy ra cùng một lúc.
    Cách thứ nhất là cái lẽ ra chỉ là khiếm khuyết lại bị coi là tội lỗi. Quả thế, một số người có tâm lý khó chấp nhận mình không phải là chủ hoàn toàn của bản thân mìh. Chẳng hạn nhu có người bảo tôi: ‘Cha xem, đã nhiều năm con cố gắng giữ bình tĩnh với chồng con, nhưng lần nào con cũng quay ra giận dữ gắt gỏng anh ấy. Con đúng là người vô cùng tội lỗi’. Khi giúp người ấy suy nghĩ về diễn biến thật của những phản ứng đó, tôi đã giúp chị ta ý thức rằng sự tự do của chị đã can thiệp rất ít vào trong những phản ứng ấy, những cơn giận đó chỉ là kết quả của tình trạng bị giới hạn của chị, thay vì là kết quả của một ý muốn tội lỗi. Bấy giờ chị đáp lại: ‘Nếu con không lầm, thì nói như thế là cha đã bảo con hãy ý thức rằng con chưa thật sự phạm tội. Thế nhưng làm như vậy là cha đã lấy đi của con tất cả rồi!’
    A! nếu vậy thì đương sự đã mặc nhiên thú nhận mình cũng tìm được một đôi điều hữu ich khi tự nhận mình có tội. Chị ta đã gián tiếp củng cố cái ước muốn mình được vạn năng và toàn quyền.
    Thế nhưng bi kịch cũng có thể ngược lại. Có những người đã phạm tội một cách hoàn toàn tự do. Khi nhận thấy mình đã thích để bị vong thân hơn là chọn con đường đưa tới sự sống thật, họ cảm thấy như đang mang một ‘vết thương chạm đến tự ái của mình’. Họ cảm thấy bực mình, nhục nhã. Và để tránh vết thương đã làm méo mó hình ảnh đẹp đẽ họ từng có về mình, họ bèn cho rằng sở dĩ thế là vì chúng ‘còn mạnh hơn cả họ’; họ phủ nhận mình đã phạm tội bằng cách chỉ coi đó là những khuyết điểm.
    Như vậy cần phải lưu ý đến hai bi kịch ám ảnh hết mọi người chúng ta, kẻ ít người nhiều. Nhất là khi bi kịch đó xảy ra trong mọi lãnh vực của cuộc sống, dù dưới nhiều hình thức khác nhau.
    Chẳng hạn, với một số người cách thứ nhất vừa nói ở trên hoạt động rất rõ, đặc biệt trong lãnh vực tính dục: họ thích tự nhận mình là người có tội hơn là coi mình đang có một số điểm bất bình thường. Nhưng cũng đối với chính những con người đó, trong lãnh vực đạo đức nghề nghiệp, cách ảnh hưởng thứ hai lại rõ hơn: để che đậy sụ thiếu liêm khiết hay bất công của mình, họ cho những hành vi của mình chỉ là thực hành theo ‘luân lý trong lãnh vực làm ăn sinh sống’.
    Như đã nói khi đề cập đến khoa phân tâm học ở trên, ấn định chính xác phần trách nhiệm của mình không bao giờ là chuyện đơn giản cả. Tuy vậy, ta vẫn có thể nhận ra hành vi của mình một cách chủ yếu là biểu hiện của tình trạng bị giới hạn hay do sự tự do sai lầm của mình.
    Sau cùng, lược đồ trên đây sẽ giúp ta hiểu được một số lệch lạc của thần học trong quá khứ. Quả thế, đã có một số nhà thần học quả quyết rằng tội của con người là nguồn gốc sinh ra mọi sự dữ trên thế gian, kể cả cái chết về mặt sinh vật. Theo họ, nếu không có tội thì cũng đã không có đau khổ, không có chết chóc. Còn tôi thì nghĩ rằng quy cho con người là nguồn gốc duy nhất của mọi sự dữ trên thế gian là đã gán cho con người một khả năng phá hoại quá lớn chỉ làm mạnh thêm cái ước vọng muốn toàn năng thôi! Trong những quan điểm thần học đó đều ngầm chứa một sự phủ nhận thân phận hữu hạn của con người. Thế mà đừng quên rằng con người hữu hạn cả trong khả năng làm điều thiện lẫn điều ác. Vì không thể đặt mình làm Thiên Chúa của điều thiện, nên thỉnh thoảng con ngươi mới tự phong mình là ‘thiên chúa’ của điều ác! Khi giải thích St 2 – 3 (câu chuyện Ađam và Eva), chúng ta đã thấy mình không thể phủ nhận những hạn chế của mình: câu chuyện Ađam và Eva dạy ta rằng con người không phải là Thiên Chúa mà cũng khôn phải là ma quỷ!

    2. Dấu hiệu thứ hai: sự sai lệch
    Ở đây tôi muốn hiểu sai lệch là đặt mình ở trong một tình trạng không phù hợp với một tiêu chuẩn đã được một tập thể nhân loại nào đó xưa nay hằng chấp nhận.
    Tình trạng này có thể đưa đương sự tới hai loại phản ứng:
    - một là có những tâm tình giả tạo về tội lỗi. Một khi đã đưa các tiêu chuẩn xã hội vào nội tâm mình, đương sự sẽ nghĩ rằng sự sai lệch của mình nhất thiết phải là tội và đi ngược với luân lý. Thay vì ý thức sự khác biệt của mình, đôi khi là sự khác biệt không thể nào xoá đươc, đương sự lại có khuynh hướng cho mình là có tội và một cách nào đó tìm cách thu hút sự chăm chú, thương xót và tha thứ của người khác. Như lúc nãy đã nói, ngày nay vì áp lực xã hội ta thường thấy nhiều người thích coi mình là có tội hơn là cho mình bất thường.
    - tình trạng sai lệch cũng có thể đưa ta tới thái độ làm ngôn sứ giả. Đương sự cho rằng xã hội đã sai lệch chứ không phải mình và cách ứng xử của mình mới là chuẩn, còn cách ứng xử của đa số là bất thường.
    Thật vậy, sai lệch và tội lỗi có liên hệ với nhau làm sao, điều này không dễ thấy. Sai lệch có thể là dấu hiệu cho biết đương sự muốn đoạn giao với Thiên Chúa: cố tình không chịu làm con người nhiều hơn bằng cách tuân theo những tiêu chuẩn của xã hội và Giáo hội là những tiêu chuẩn có sức giải phóng ta thật sự. Tuy nhiên cũng có thể sống trong tình trạng sai lệch như thế là dấu chứng tỏ ta đang muốn thể hiện những giá trị căn bản của Tin mừng (cf. chẳng hạn những người phản đối bất bạo động). Trong trường hợp này, sai lệch sẽ trở thành lời cật vấn có tính cách ngôn sứ đối với người khác. Cuối cùng có thể trong quá trình lịch sử cá biệt của mình, sau khi đã nhận định chín chắn, đương sự nghĩ rằng mình phải sống trong tình trạng sai lệch ấy vì đó là cách duy nhất để ra khỏi một bế tắc mà các thất bại trong quá khứ hay các khó khăn tâm lý đã xô mình tới. Tình trạng sai lệch ấy dĩ nhiên không thể được nâng lên thành tiêu chuẩn. Nhưng cũng rất có thể đó không phải là một tình trạng tội lỗi một cách chủ quan (chẳng hạn tình trạng của một số người ly dị nhưng đã tái kết hôn hay của một người loạn dâm đồng giới đã sống với nhau như vợ chồng). Dầu sao, để tránh đoạn giao với Thiên Chúa, muốn sống trong tình trạng sai lệch đương sự phải có ý muốn sâu xa là luôn luôn phải lưu ý tạo điều kiện cho đối thoại đó bằng cách đừng có những phê phán quá đơn giản và thái độ xua trừ phản Tin mừng.

    3. Dấu hiệu thứ ba: đau khổ
    Như ta biết, con người thường muốn tìm cho ra một kẻ chịu trách nhiệm về sự đau khổ đang dày vò mình, bởi vì thật khó chấp nhận tính phi lý của sự dữ. Do đó khi chỉ ra được chính mình là người phải trách nhiệm về nỗi đau đớn ấy, đương sự tưởng như đã nhận được hình phạt thích đáng về tội lỗi. Loại phản ứng này có thể thấy trong một đoạn Tin mừng ai cũng biết: câu chuyện người mù bẩm sinh (Ga 9,1-3).Các môn đệ hỏi Đức Giêsu người ấy bị mù vì tội của mình hay của cha mẹ mình. Đức Giêsu đã bác bỏ cách lập phương trình quá dễ dàng như vậy: đau khổ= hậu quả của tội đang phạm. Người cho biết không phải vì đương sự hay cha mẹ anh ta đã phạm tội.
    Dầu vậy cũng có nhiều đoạn Kinh thánh hứa hẹn an bình, vui tươi và hạnh phúc cho những ai thực hành các giới luật Tin mừng theo gương Đức Giêsu và ngược lại đe doạ tai hoạ cho những ai chịu làm giàu cách bất chính, những ai bóc lột người khác, những ngôn sứ giả (Lc 6,24). Cũng thế, trong Kinh thánh nhiều đoạn cho thấy giữa tội lỗi và các quyền lực sự dữ hay bệnh tật có liên hệ với nhau. Phải hiểu điều này thế nào? Hãy nhớ lại những gì chúng ta đã trình bày ở các trang trước. Tội là khước từ những gì giúp xây dựng con người một cách thật sự, vì ý định của Thiên Chúa là làm sao cho con người đạt được mức viên mãn, làm con người đứng thẳng, con người thành công, làm nghĩa tử đã được giải cứu. Bởi đó phạm tội luôn luôn là tự làm cho mình bớt là người, là thụt lùi xuống một cấp, có hại cho sự phát triển toàn diện của mình, là tạo ra những tình huống đau đớn trong đó con người sẽ đau đớn cảm nhận những hậu quả của sự vong thân.
    Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn, cần phân biệt như các nhà thần học giữa sự dữ phải chịu về mặt thể lý (chẳng hạn như bị mù) và sự dữ về mặt luân lý (tội lỗi). Quả thế, theo thân phận con người là thụ tạo, ai cũng cảm nhận những thất bại, đau khổ, quãng cách giữa dự phóng và đời sống thực tế, và cuối cùng là chết. Những đau khổ loại này (sự dữ phải chịu về mặt thể lý) dĩ nhiên không phải là hậu quả trực tiếp của tội, mà chỉ là hậu quả của thân phận thụ tạo thôi.
    Ngược lại, hậu quả của tội chính là những tương quan xấu của con người đối với những đau khổ vừa kể, chẳng hạn biến những đau khổ ấy thành dịp để phản kháng bằng cách gièm pha, phỉ báng hay sống vô thần thay vì lợi dụng đó làm cơ hội để tỏ bày đức tin và lòng khiêm nhượng. Hậu quả của tội còn là những sự dữ khác do cảnh người bóc lột người gây ra. Đó là hình thức tội lỗi trong thế giới ngày nay. Như G. Martelet đã nhận xét chí lý, ‘đó là sự dữ đã xuất hiện một cách có tổ chức và hệ thống nơi cá nhân và xã hội. Đó là sự khốn nạn của con người về mặt tinh thần, đã trở thành một cơ cấu do con người phát minh ra hay tiếp thu được, có quyền lực trên chính chúng ta dù trước đó nó là kết quả từ sự tự do của chúng ta’.
    Ta đau đớn cảm nhận cái cơ cấu ấy đã làm khuynh đảo các thực tại. Nhưng lại có thêm một vấn đề đặt ra, khi con người coi cái cơ chế ấy chỉ là sự dữ ‘tự nhiên’, đang khi đó chính là hậu quả của tội lỗi mình, đã xuất hiện trong thế giới. Chẳng hạn, người ta coi một hậu quả xấu mà con người phải chịu trách nhiệm (như tình trạng sức khoẻ của các công nhân bị chủ bóc lột hay tình trạng nghiện rượu trở nên trầm trọng là do các cơ sở sản xuất rượu chạy theo lợi nhuận một cách thiếu lành mạnh) chỉ là ‘kết quả của định mệnh’ hoặc là đặc tính khó hiểu của tự nhiên. Ở đây một lần nữa ta lại thấy bị cám dỗ lẫn lộn giữa hai loại sự dữ: sự dữ phải chịu về mặt thể lý mà hậu quả thân phận con hữu hạn và sự dữ về mặt luân lý hay tội lỗi là hậu quả do con người tự ý muốn bị vong thân hơn.
    Như vậy, đau khổ cũng là một dấu hiệu hết sức hàm hồ cho biết có tội hay không. Đôi khi, đó có thể là dấu cho biết tập thể này cá nhân nọ đã phạm tội. Nhưng cũng có lúc đó chỉ là tiếng gọi kêu mời mỗi chúng ta nhìn nhận thân phận con người hữu hạn. Khi tiết lộ các ý định của Thiên Chúa lúc thuận lợi cũng như lúc bất lợi, các ngôn sứ đã gián tiếp giúp ta phân biệt đúng đắn đau khổ - dấu hiệu của tội lỗi và đau khổ - dấu hiệu của thân phận loài người hữu hạn, nơi con người, một ‘hữu-thể-sống-để-chết’ như Heidegger đã nhận xét.

    4. Dấu hiệu thứ tư: nội dung khách quan của hành vi
    Ở đây tôi muốn nói đến ‘chất thể’ của hành vi như ngày xưa quen gọi. Chất thể hay nội dung khách quan của hành vi là một trong những tiêu chuẩn được Truyền thống Giáo hội dựa vào để xác định mức nặng nhẹ của tội.
    Thật chính xác khi coi tầm mức nặng nhẹ khách quan của hành vi là một dấu hiệu hết sức thích đáng cho biết có tội hay không và nặng nhẹ thế nào. Quả thật, nếu đương sự làm một hành vi mà về mặt khách quan rất có sức phá hoại đối với bản thân mình và người khác, đồng thời nhập cuộc vào đó với tất cả tự do, thì hầu chắc người ấy đã phạm tội nặng.
    Tuy nhiên, có một vấn đề được đặt ra về việc lượng định tầm mức nặng nhẹ khách quan của hành vi. Thật vậy, sự lượng định của ta thường bị chi phối bởi những ‘chiến thuật’ của vô thức hay bởi áp lực của các ý thức hệ chung quanh. Điều này càng đúng khi đó là hành vi trong lãnh vực tính dục hay có tính gây hấn. Chẳng hạn khi nói trong lãnh vực của đức khiết tịnh không có chất thể nào là nhẹ, tức là bảo rằng trong lãnh vực này, tội nào cũng là tội nặng – ít là về mặt khách quan. Đây đã là quan điểm của Truyền thống Giáo hội trong nhiều thế kỷ.
    Thế nhưng nếu phê bình nghiêm túc hơn một chút ta sẽ thấy lý thuyết đạo đức ấy khó lòng đứng vững. Có thật những sự thoả mãn của một thanh niên đối với những hình ảnh tưởng tượng có liên quan đến tính dục hay cả những hành vi thủ dâm của một thiếu niên là những chất thể rất nặng tội? Phải thành thật nhìn nhận ý kiến ấy rất đáng nghi ngờ. Ngược lại, thần học trong nhiều thập niên đã tạo cho người ta có cảm tưởng rằng việc nước này bóc lột nước kia trong chế độ thuộc địa không phải là một tội nặng. Đúng như Đức Giêsu đã nói, luân lý Kitô giáo đã ‘gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt con lạc đà’ (Mt 23,24).
    Như vậy, nếu muốn ‘chất thể’ của tội là chỉ dẫn tốt cho ta biết tầm mức của tội, thì trước tiên cần phải nghiên cứu thật sâu xa, có phê bình hẳn hoi về ý kiến ấn định ‘chất thể’ này là nặng hay nhẹ. Muốn thực hiện việc nghiên cứu này cần phải tổng hợp các khám phá chắc chắn của khoa học nhăn văn, các kết quả ổn định của khoa chú giải Kinh thánh và những chuẩn mực bền vững của Truyền thống.
    Nếu thế, ngày nay ta có nên xác định lại danh sách các tội nặng ‘về chất thể’, nghĩa là những hành vi khách quan nặng tội, có thể làm hỏng sâu xa sự tự do của con người không? Truyền thống đã không ngần ngại lập một danh sách phân biệt các tội đi ngược lại các nhân đức đối thần và bảy tội đầu mối. Bảng liệt kê ấy đang bị nhiều người hôm nay cười nhạo, và không phải là không có lý: nó biểu lộ một cái nhìn sự vật hoá con người và không dựa trên những phân tích sâu xa về thực tế. Thế nhưng một cái nhìn thần học tồn tại lâu năm trong Truyền thống Giáo hội như thế không thể nào bị gạt bỏ dễ như trở bàn tay được. Nguyên việc nó tồn tại được qua nhiều thế kỷ cũng là dấu cho thấy bảng danh sách ấy đã đụng chạm thật sự được những chân lý căn bản về nhân loại học và thần học. Vì thế, tôi chỉ nghiên cứu sâu xa hơn bảng danh sách các tội ấy và sau đó sẽ đưa ra nhận xét là nói chung bảng ấy rất thích đáng. Trước hết không ai phủ nhận như thế khi tìm hiểu các tội đi ngược lại ba nhân đức đối thần, vì chính Kinh thánh cũng đã coi các tội này là nặng:
    Phạm tội đối với đức tin có lẽ là nguồn gốc sâu xa nhất của mọi tội khác, vì rốt cuộc ta đã từ chối tin vào Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa Tạo hoá và Cứu độ; và như thế sớm muộn gì cũng đi tới chỗ thờ ngẫu tượng. Thế mà theo Kinh thánh tội nào cũng là một hình thức thờ ngẫu tượng.
    Phạm tội đối với đức cậy là từ chối không chịu tin rằng thế giới, tha nhân và chính bản thân mình vẫn có thể có một tương lại. Là từ chối không chịu tin Thiên Chúa quyền năng có thể hoạt động trong sự yếu đuối của ta và có thể đánh đổ sự ‘khôn ngoan’ của thế gian (1Cr 1).
    Phạm tội đối với đức ái là quay về mình một cách thái quá để lo thu góp cho mình thay vì mở lòng với những người đang gặp cơn túng quẫn. Là cho thấy mình chưa tiếp đón Thiên Chúa Tình yêu, Thiên Chúa muốn con người được sống.
    Có người sẽ nói: ‘Đồng ý đánh giá các tội lỗi phạm các nhân đức đối thần như thế còn đúng lắm. Thế nhưng các tội đầu mối thì sao? Chúng có ăn nhập gì với cách sống chúng ta ngày hôm nay không? Thưa, hoàn toàn không.’ Có chắc không? Nếu để ý đến nền tảng nhân loại học của bảng danh sách các tội đầu mối, tôi nghĩ ta sẽ có thể nhận ra sự thích đáng của bảng liệt kê ấy. Bây giờ ta hãy xem từng tội một bằng cách tham khảo thêm những nghiên cứu hiện nay của khoa nhân loại học:
    Hình thức vong thân chính yếu của con người, theo tôi, là cố tình nuôi dưỡng khát vọng được vạn năng. Hãy nhớ lại những gì đã đề cập khi giới thiệu sơ đồ ‘cái trứng’ ở chương trước. Khai thác khát vọng đó là đã phạm tội kiêu ngạo mà Truyền thống Giáo hội xưa nay luôn luôn coi là tội đầu tiên trong 7 tội đầu mối.
    Một hình thức khác của tội, thường thấy hiện nay, là cố tình từ chối những dị biệt, chỉ vì muốn có cái người khác có, bằng cách xoay xở một cách xấu xa như R. Girard gọi là ‘làm bộ như có’. Theo tôi thế là đã pham một tội đầu mối được gọi là tội ghen ghét.
    Tội thường xuất hiện nơi chúng ta khi chúng ta lạm dụng bản năng gây hấn của mình. Thật vậy, tất cả những hệ thống suy tư về đạo đức hiện nay đều cho thấy muốn sống đạo đức, trước tiên con người phải làm sao điều hoà bạo lực vì phần lớn những sự dữ trên thế giới đều do ta chấp nhận làm hay chịu những hành vi bạo lực chết người. Cứ theo đã suy tư đó ta sẽ gặp một tội đầu mối khác là tội nóng giận, tội không điều hoà được bản năng gây hấn của mình.
    Xã hội chúng ta đã xây dựng trên việc đua nhau săn tìm lợi nhuận và thường sẵn sàng làm hại người khác! Người ta sử dụng sức lao động của con người để người giàu càng giàu hơn và người nghèo càng nghèo hơn. Như vậy có quan hệ không tốt với tiền bạc là một trong những hình thức sinh ra tội lỗi nhiều nhất trong xã hội chúng ta. Truyền thống Giáo hội gọi đó là tội hà tiện.
    Chúng ta đang sống trong một xã hội tiêu thụ, một xã hội thường gây cho ta cảm nghĩ rằng chỉ khi nào được thoả mãn no nê mọi thèm khát con người mới cứu được mình và mới được hạnh phúc. Như một số người phản kháng xã hội tiêu thụ một cách gay gắt thường nói: ‘Đó là xã hội của thằng hề chỉ loay hoay quanh cái miệng’. Truyền thống Giáo hội xem ra rất nghi ngờ những quan hệ không tốt có liên quan đến cái miệng và gọi đó là tội mê ăn uống.
    Một hình thức tội lỗi khác xoay quanh việc khai thác sự khác nhau trong tính dục, đàn ông tìm cách nô lệ hoá đàn bà, con người thiếu kính trọng thân xác với phái tính. Tội này Truyền thống gọi là mê dâm dục.
    Cuối cùng, có một tội mà hiện nay càng ngày ta càng thấy nhiều: đó là để cho tình trạng tâm linh càng ngày càng khô cằn, do những khó khăn trong việc sống đức tin hiện nay, do những khủng hoảng trog việc trung thành với Chúa trước những tấn công của chủ nghĩa vô thần hiện nay, tình trạng khô cằn về tâm linh ấy đã cản trở các Kitô hữu không dám lao sâu vào cuộc chiến bênh vực Thiên Chúa. Truyền thống gọi tội này là khô khan nguội lạnh (lười biếng về tâm linh), tội thứ bảy trong bảy tội đầu mối.
    Như thế, trong lịch sử nhân loại cách thế con người từ chối Thiên Chúa không có gì thay đổi lắm. Thần học Kitô giáo xưa nay luôn luôn tìm ra những điểm yếu của con người, những điểm yếu này qua đó tội lỗi đã lọt vào thế gian. Theo tôi, dựa vào bảng danh sách bảy tội đầu mối và những tội chống lại các nhân đức đối thần như vừa trình bày lại, chúng ta có thể tìm ra một số điểm mốc khá chắc chắn để xét mình, dù đứng về mặt sư phạm, theo tôi không nên dùng mấy chữ ‘tội đầu mối’ hay ‘Bảy mối tội đầu’.

    5. Dấu hiệu thứ năm: lương tâm cảm thấy cắn rứt hay tâm hồn cảm thấy có tội.
    Một trong những dấu hiệu cho biết mình có tội mà các Kitô hữu hay dựa vào là lương tâm cảm thấy cắn rứt hay tâm hồn cảm thấy có tội. Nhiều người tự nhủ: ‘Tôi không cảm thấy lương tâm cắn rứt; đó là dấu chứng tỏ tôi đã không làm điều chi xấu’, hay ngược lại: ‘Tôi cảm thấy day dứt nhiều, nếu vậy, hẳn là tôi đã phạm một tội nặng’. Những suy nghĩ ấy phản ánh cho thấy người ta đã quá đơn giản hoá vấn đề. Vì vậy mỗi Kitô hữu cần phải am tường rõ ràng giữa tội và việc cảm thấy mình có tội có liên hệ với nhau thế nào. Quả thật, cảm thấy mình có tội là một tình cảm thường không cân xứng với tầm mức nặng nhẹ khách quan của các hành vi. Chẳng hạn có những hành vi về mặt khách quan chẳng đáng kể lắm, nhưng về mặt chủ quan lại có kèm theo một mặc cảm tội lỗi rất nặng, ngược lại có những hành vi rất nặng về mặt khách quan, nhưng ta lại chẳng cảm thấy tội lỗi gì. Lý do của những phản ứng đó đã được nêu ra trên đây. Xin nhắc lại: cảm giác tội lỗi diễn ra trước tiên giữa tôi với bản thân mình, còn tội là một thực tại kéo tôi vào quan hệ với một Nhân vật khác, tức là Thiên Chúa. Vì thế, cần cảnh giác hai thái độ này, mà biết đâu ta đang vướng mắc một trong hai, tuỳ theo mỗi lãnh vực của cuộc sống, cả hai thái độ ấy đều sai lầm. Vì khuôn khổ hạn hẹp của bài nói chuyện, tôi chỉ xin lược qua hai thái độ ấy.

    A/ Thái độ thứ nhất: Không chịu nhìn nhận mình có tội hay phủ nhận tội lỗi
    Đó là trường hợp của Đavít: Sau khi giết tướng Uria và ngủ với vợ ông là Betsêva, Đavít vẫn không chịu nhận ra mình có tội. Đúng như Paul Ricoeur nhận xét, tội thường có khuynh hướng tự giấu giếm và vị kỷ. Ta thường nghe một người đi họp trễ nói: ‘Tôi đến trễ. Tôi muốn giải thích… nhưng vì…’. Ngay trong câu nói này ta đã thấy hai nét chính của tội: vị kỷ (‘Tôi muốn giải thích’) và giấu giếm (‘nhưng vì…’). Đang khi nếu có ý thức tội lỗi thật sự, người sẽ nói: ‘Xin vui lòng miễn thứ cho tôi vì tôi đến trễ’. Đức Giêsu đã từng cương quyết tố giác sự giấu giếm ấy khi nói: ‘Ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng con người thích bóng tối hơn ánh sáng vì các viêc họ làm thì xấu xa. Ai làm điều xấu thì ghét ánh sámg và không đến với ánh sáng, kẻo các việc của mình bị lộ ra’ (Ga 3,19-20).
    Tất cả mọi người chúng ta ít niều đều có khuynh hướng tìm cách phủ nhận tội của mình trong một vài lãnh vực của cuộc sống. Có rất nhiều cách để phủ nhận, tôi không thể kể ra hết ở đây. Dầu sao, Mạc khải đã vạch cho ta thấy tính vị kỷ của chúng ta khi tìm cách (tự phát hay cố tình) tránh né trách nhiệm tội lỗi. Mạc khải đã cho thấy tội lỗi có một tầm mức khá nặng; tầm mức ấy được biểu lộ quá nhiều nét:

    a) Con người bất lực không thể tự mình rút ra khỏi tội
    Đành rằng con người có thể tìm cách che đậy hay quên đi sự bất lực căn bản của mình. Nhưng Mạc khải luôn luôn nhấn mạnh rằng con người như bị tội lỗi nơi mình ’trói chặt’. Chỉ cần nghe lời thánh Phaolô mô tả con người sống dưới sự kềm cặp của tội lỗi: ‘Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét tôi lại làm. Điều tốt tôi muốn thì tôi không làm được, nhưng điều dữ tôi muốn tránh, tôi lại làm’ (Rm 7). Con người bị nô lệ tội lỗi tới mức chỉ mình Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, chỉ mình Đấng Mêsia là Đức Giêsu – Kitô mới có thể ban cho ta khả năng quay về lại với Tạo Hoá.

    b) Tội lỗi để lại những hậu quả không thể chữa được, cả Thiên Chúa cũng không thể xoá hết được.
    Các giảng viên giáo lý thường phạm một sai lầm cổ điển là trình bày sự tha thứ của Thiên Chúa như một hành vi có sức tái tạo lại trình trạng nguyên vẹn ban đầu đã mất. Thật ra, Thiên Chúa không thể làm cho những hành vi ta đã phạm không có những hậu quả dứt khoát, vĩnh viễn. Nhưng điều Người muốn làm là trả lại cho ta một tương lai mới, dù ta đã phá vỡ tất cả nơi mình, nơi người khác và nơi xã hội.

    c) Tội có tầm mức nặng là vì xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
    Đây là một trong những Mạc khải ở mức cao điểm. Tội của chúng ta không phải chỉ là sự xúc phạm đến những con người, nhưng một cách nào đó là sự xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Một số nhà thần học hiện nay tiếp tục hướng suy tư của Truyền thống đã chẳng ngần ngại khẳng định rằng, dù vẫn không quên giá trị giới hạn của phương pháp loại suy, ta vẫn có thể nói tội con người gây ra đau khổ cho Thiên Chúa, vì nó vi phạm tới chính kế hoạch của Thiên Chúa, một kế hoạch có mục tiêu làm sao cho con người phải là người hoàn toàn đứng thẳng trước mặt Chúa.
    Như vậy, khi tìm cách không nhìn nhận tội lỗi mình đã phạm, tìm cách trốn tránh trách nhiệm thật, nhưng biết nhìn lên thánh giá Đức Kitô và chăm chú lắng nghe Lời Chúa, tôi sẽ nhớ lại tội luôn luôn đem lại chết chóc cho con người và đau khổ cho Thiên Chúa.
    Tuy nhiên, cũng xin lưu ý có khi nhìn nhận tội lỗi lại là tiếp sức thêm cho ước muốn vạn năng của con người. Quả thế, khi biết mình có thể làm Thiên Chúa đau khổ, con người không thấy mình có quyền lực đến thế nào sao? Chính vì thế phải luôn luôn liên kết chủ đề của Truyền thống (‘Thiên Chúa bị tội làm đau khổ’) với chủ đề Kinh thánh (‘Thiên Chúa bất di bất dịch’) ( Ga 5,6; Gr 7,19; Gc 1,17). Chủ đề của Kinh thánh nhắc cho ta nhớ rằng Thiên Chúa không bao giờ bị tội lỗi tiêu diệt, con người phải đánh đổ ảo tưởng – một ảo tưởng nảy sinh mãi nơi con người – rằng quyền lực của mình co thể ngang bằng với quyền lực của Thiên Chúa (Về vấn đề đau khổ của Thiên Chúa, x. F. VARILLON, ‘La souffrance de Dieu’, Le Centurion, 1975, và tài liệu của Uỷ ban thần học quốc tế trong DC 16.1.1983, pp. 125-126).

    B/ Thái độ thứ hai: phóng đại tội của mình
    Thái độ này chủ yếu là tự khinh rẻ mình, nuôi dưỡng mặc cảm về tội tới mưc đánh giá mình thật thấp, mang tâm trạng hạ nhục và đay nghiến mình. Thế mà các nhà triết học vô thần cũng như các nhà tu đức đều luôn luôn lưu ý thái độ ấy là thái độ tứ ái quá độ. Ai cũng biết lời Nietzsche:’Kẻ nào tự khinh rẻ mình thì sẽ tiếp tục thích thú với sự khinh rẻ ấy’. Hơn nữa, các nhà tu đức không bao giờ ngần ngại yêu cầu các Kitô hữu hãy tự sửa chữa mình một cách dịu dàng, vì mọi hành vi giận dữ quá đáng với mình đều là dấu cho biết đương sự đang tìm kiếm mình thái quá.
    Ở đây một lần nữa Mạc khải giúp ta đặt mọi sự đúng vị trí của chúng.
    a) Mạc khải nhắc tôi nhớ rằng Thiên Chúa yêu tôi không hề tuỳ thuộc vào sự nhục nhã mà tôi ép mình phải chịu. Thiên Chúa không thích nhìn nhận con người tự hạ nhục mình, tự đánh giá thấp về mình. Ngài chỉ muốn con người khiêm tốn, nghĩa là biết bình tâm nhìn nhận sự thật của mình. Ngoài ra, Thiên Chúa muốn con người đứng thẳng như một người con sẵn sàng chịu trách nhiệm trước mặt Ngài.
    b) Mạc khải cho tôi thấy tội lỗi của tôi, nhưng đồng thời cũng cho tôi thấy Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ. Tội lỗi và ơn cứu độ, hai đề tài ấy luôn đi đôi với nhau trong Kinh thánh. Vì thế, như Paul Ricoeur hay nhấn mạnh, người Kitô hữu khôg tin tưởng vào tội lỗi, mà tin tường vào ‘sự tha thứ các tội lỗi’. Bởi thế, đã nhìn vào Thiên Chúa của Kinh thánh thì không thể nào cứ giam mình trong mặc cảm tội lỗi làm hạ giá mình. Ơn tha thứ của Thiên Chúa luôn có đó, lúc nào cũng mở cửa cho tôi đến với Ngài và người khác, kể cả khi tôi cứ muốn giam mình trong nỗi dày vò hối hận.
    c) Sau cùng Mạc khải cho biết rằng tôi không cần phải ‘trả nợ’ về những lỗi lầm quá khứ của mình.
    Tâm lý học cho biết đôi khi muốn ’đền tội’ (theo nghĩa muốn trả một thứ tiền phạt nào đó cho tội đã phạm) lại gây ra những hậu quả không lành mạnh. Theo Kinh thánh, Thiên Chúa Không đòi hỏi con người đền tội theo lối đó. Thiên Chúa không đòi tôi trả một món tiền phạt, nhưng chỉ đòi tôi sống phù hợp với ơn tha thứ tôi đã được Người ban cho. Thiên Chúa muốn tôi lãnh nhận ơn tha thứ như nhận một nén bạc để sinh lời, một nén bạc sẽ tạo được một niềm vui thật sâu xa.
    Như thế, tất cả những gì ta suy tư về tội nay đã kết thúc bằng một suy tư về sự tha thứ của Thiên Chúa. Đó không phải là chuyện ngẫu nhiên vô tình đâu! Thật vậy tha thứ là món quà cao đẹp nhất, hoàn mỹ nhất. Làm Kitô hữu và nhận ra mình là tội nhân, chính là nhận thức rằng ngay chính khi tôi yếu đuối hèn nhát, Chúa đã tặng tôi món quà hoàn mỹ ấy: ‘Từ nay không còn án phạt với những ai sống trog Đức Giêsu – Kitô nữa. Vì luật của Thánh Thần, đem lại sự sống trog Đức Giêsu – Kitô, đã giải thoát ngươi khỏi luật của tội lỗi và chết chóc’ (Rm 8,1-2).

    Paris, tháng 3 năm 1981.
    Tác giả: Xavier Thévenot

    Nguồn: dunglac.org
    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  12. Có 4 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com