|
Công việc đáng ghi nhớ nhất của Ngài là năm 1848 Ngài đã xin Đức Giáo Hoàng Piô IX đã chia giáo phận Đông Đàng Ngoài thành hai giáo phận Bùi Chu (Trung Đàng Ngoài) và Hải Phòng (Đông Đàng Ngoài). Từ đây mỗi giáo phận tự tổ chức lấy công việc truyền giáo và mục vụ theo những nhu cầu đòi hỏi của mỗi giáo phận.
Từ năm 1851 tới 1860 vua Tự Đức đã ra 5 sắc chỉ bắt đạo và mỗi sắc chỉ lại càng thêm gay gắt khốc liệt thêm. Vua tăng tiền thưởng từ 100 tới 300 lạng bạc cho những ai chỉ điểm bắt được các đạo trưởng. Đức Cha Hermôsilla Liêm phải ba lần đổi tên (Vọng, Liêm, Tuấn), đi đâu cũng phải lén lút, tàng hình, bôi mặt lem luốc và trú ẩn trong các hang hầm ẩm thấp. Di chuyển từ Đông Xuyên tới Kẻ Né, Đông Bài, Trại Mới, tức xứ Đông Xá v.v. đến chủng viện Kẻ Mốt tỉnh Hải Dương thật là khó khăn, vượt thoát trăm ngàn nguy hiểm. Dù khó khăn trước nhiều thách đố, Đức Cha vẫn kiên trì tìm mọi cách để lui tới những địa điểm này lo việc giảng dạy cứu giúp các linh hồn.
Sắc chỉ độc ác nhất của vua Tự Đức năm 1860 là sắc lệnh Phân Sáp. Chiếu theo đó, hết mọi người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị phân tán vào các làng lương dân. Nhận được sắc lệnh này, từ linh mục tới giáo dân đều bàng hoàng sợ hãi......
Chính Đức Cha Hermôsilla Liêm cũng bàng hoàng run sợ và hình như Ngài đã linh cảm được số phận tương lai của mình.Vì sắc lệnh gay gắt khốc liệt này cho nên ngay cả các hầm trú ẩn cũng bị phát giác. Các linh mục bị bắt khắp nơi, Đức cha Hermôsilla Liêm cũng không còn nơi trú ẩn! Trước đây cả làng Nam Am số người lương rất đông. Họ đối xử rất tốt với người Công giáo, họ sẵn sàng đón nhận giáo dân, linh mục và ngay cả các linh mục ngoại quốc tới ở trong gia đình của họ, nay vì sắc lệnh Phân Sáp độc ác này nơi đây cũng đã trở nên khó khăn đầy nguy hiểm! Khi ấy thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang cũng đang ấn lánh tại đây bàn cho Đức Cha về lại Hải Dương. Nơi đây trong một thời gian ngắn ngài gặp iạI Đức Cha Berrio Ochoa Vinh và cha Amato Bình, cả hai vị cùng là dòng Đa Minh cũng đang ấn lánh mong thoát cuộc bách hại. Ban ngày mỗi người đi một nơi, giả làm nghề chài lưới, đánh tôm cá, tìm cách gặp gỡ giáo dân để khuyên bảo và ban các bí tích cho họ, ban đêm trở về tập họp dâng lễ cầu nguyện chung với nhau..
Đức cha Hermôsilla Liêm và thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang ẩn trú trong nhà ông trưởng Bính được một thời gian rất an toàn. Nhưng rồi một hôm cha con ông trưởng Bính không hiểu có chuyện gì bất bình, cãi nhau lớn tiếng. Người con trai tức với bố liền đi tố cáo trong nhà có đạo trưởng ẩn trú. Thế là ông Đội Bằng đang làm Chánh Tổng đem quân tới bao vây bắt luôn Đức Cha và thầy giảng. Đức Cha thì họ nhốt trong cũi còn thầy giảng Giuse Nguyễn Duy Khang thì bắt đeo gông và xiềng xích điệu về tỉnh Hải Dương, hôm đó là ngày 21 tháng 10 năm 1861.
Về tới Hải Dương, quan tổng đốc tỉnh mở cuộc thẩm vấn Đức Cha một cách khá tỉ mỉ Quan hỏi:
- Tới Việt Nam, ông đã đi qua những nơi nào:
Đức Cha trả lời:
- Tôi nay ở chỗ này mai ở chỗ khác, không có nơi nào nhất định
- Ông có biết đức Vua đã ra lệnh cấm Tây Phương đạo trưởng không được phép giảng đạo Gia Tô không?
- Tôi biết
- Thế tại sao ông không tuân lệnh vua?
- Tôi chỉ có bổn phận vâng lệnh vua khi lệnh ấy không ngược lại với giáo lý đạo Thiên Chúa mà thôi.
- Ông đem tà đạo vào mê hoặc dân chúng. Theo sắc chỉ
đức vua thì ông sẽ bị án tử, ông biết không?
- Đạo Thiên Chúa là đạo chân chính. Đạo dạy con người biết tôn thờ vị Thượng Đế là Đấng tạo thành trời đất và yêu thương nhân loại, để khi chết được lên Thiên Đàng hưởng phúc trường sinh. Như vậy, tại sao quan lại nói là tà đạo? Xin quan lớn giải thiách cho tô biết.
Quan tổng đốc không biết giải thích ra sao nên lờ đi. Đức Cha Hermôsilla Liêm lập luận đơn sơ nhưng vững lý. Quan cho rằng khó mà thuyết phục được ông này cho nên cứ nhốt Ngài trong cũi. Đức Cha thì to con mà chiếc cũi thì thấp và nhỏ cho nên Đức Cha cứ phải khòm lưng suốt ngày, co ro trong chiếc cũi, mặc cho xương cốt co rút đau đớn, chân tay rã rời, mệt mỏi. Suốt bốn ngày liền, Đức Cha ngồi trong cũi chứng kiến người ta bắt, điệu Đức Cha Valentino Berrio Ochoa Vinh và cha Amato Bình, cả hai cũng bị nhốt trong cũi đưa về giam cùng một chỗ với Đức Cha Hermôsilla Liêm. Thật là ý Chúa tốt lành đã xui khiến cho ba vị tông đồ truyền giáo cùng quê hương gặp nhau, tâm sự với nhau, khuyến khích nhau trong những giờ phút bị giam cầm, tù đày trước giờ tử đạo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1861, quan tổng đốc tỉnh Hai Dương cho thi hành án lệnh trảm quyết cả ba chiến sĩ Đức Tin tại pháp trường Năm Mẫu, ngoài thành tỉnh lị Hải Dương.
Dân chúng theo dõi tin tức biết được ngày các Đấng bị xử. Ngay từ sáng sớm dân chúng đã lũ lượt tuốn ra chờ đợi hai bên đường đông như họp chợ. Theo lệnh tổng đốc, các quan đã lệnh cho hai tiểu đoàn quân đội chừng 500 binh sĩ xếp thành hai hàng nghiêm chỉnh. Đi dầu là ba con voi, quan giám sát đi giữa, có hai người che lọng hai bên. Tiếp theo sau là ba tù nhân của Nhà Nước, trong đó có cả người con ông Đội Bái đã được Đức Cha Hermôsilla Liêm dạy giáo lý và rửa tội trong tù mấy ngày hôm trước.Theo sau là ba chiếc cũi nhốt cha Amato Bình, Đức Cha Valentino Berrio Ochoa Vinh và Đức Cha Hermôsilla Liêm. Cả ba vị đầu bị nhốt trong cũi nhưng các ngài tươi cười bình thản. Hai Đức Cha thì luôn luôn giơ tay làm phép lành cho giáo dân. Dân chúng theo sau ồn ào, kẻ khóc người thương. Nhiều kẻ trách móc quan quân dã tâm giết chết những người hiền lành thánh thiện này.
Tới nơi, người ta đã giải sẵn 6 mảnh chiếu, bên trên ba mảnh còn trải thêm ba miếng thảm thẳng hàng dành cho ba vị tông đồ Thừa Sai. Quan giám sát ra lệnh mở cũi để ba vị bước ra ngoài. Các ngài quay chào mọi người rồi quì gối cầu nguyện một lúc Đức Cha Hermôsilla Liêm xin quan giám sát cho xử người con ông Đội Bái trước, vì ngài muốn đích thân trông thấy anh bền đỗ chết lành. Sau đó ba vị bị trói chặt vào cột, để rồi nghe đọc bản án. Một viên chức bước ra đứng giữa đọc lớn tiếng: “Tây phương đạo trưởng trá hình giảng đạo, vì thế mà bị xử tử vì đạo Gia Tô đã bị vua cấm”. Tiếp theo, viên chức đó lại cầm loa lên giọng lớn tiếng: “Trong toàn dân ai tỏ lòng thương tiếc hoặc đền thấm máu ba Tây Phương đạo trưởng này sẽ bị bắt ngay tại chỗ và giải nộp về tỉnh cho quan tổng đốc”.
Sau cùng, chiêng trống nổi lên từng hồi. Mọi người hồi hộp nín thở. Các tên đao phủ đứng sẵn bên ba vị chiến sĩ của Chúa, tay cầm gươm bén nhọn, giơ cao đợi tiếng chiếng trống cuối cùng thì vung chém một nhát. Ba chiếc đầu rơi xuống trong vũng máu đỏ tươi chảy lai láng. Vì đã có lệnh cấm nên mọi người cả lương lẫn giáo chờ đợi cho quan quân rút hết thì mới dám kéo tới thấm máu các ngài. Một vị quan trong nhóm đã sai một tên đầy tớ tới thấm máu các vị Tử Đạo đưa về làm thuốc chữa các thứ bệnh trong gia đình.Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày, nhưng giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối rồi đưa về Yên Dật, sau lai đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng di chcuyển về đặt tại Đền các Thánh Tử Đạo Hải Dương.
Đức thanh cha Piô X suy tôn Đức Cha Hierônimô Hermôsilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày tháng 5 năm 1906. Đức Cha đã nằm xuống nhưng chân lý ngài đã rao truyền, phong thái và nhiệt tâm của Ngài vẫn sống mãi triển nở trong lòng giáo dân và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tinh thần đó mãi mãi là dấu chỉ chói sáng cho mọi người Kitô hữu tiếp tục sống vững mạnh làm chứng cho Chúa Kitô. Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nâng Ngài lên hàng Hiển Thánh Tử Đạo Việt Nam..

Gioakim Nguyễn Đức Việt Châu |
|