Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 9 trên 9

Chủ đề: Tiếng gọi tình yêu thầm lặng

Threaded View

  1. #1
    agapaw's Avatar

    Tham gia ngày: May 2012
    Tên Thánh: Piô
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 72
    Cám ơn
    60
    Được cám ơn 171 lần trong 60 bài viết

    Default Tiếng gọi tình yêu thầm lặng

    TIẾNG GỌI TÌNH YÊU THẦM LẶNG


    First published: 1995 do Darton, Longman and Todd Ltd LondonAndCistercian Publications Inc
    WMU StationKalamazoo, Michigan 49008
    Nguyên tác bằng Tiếng Pháp do một Đan Sĩ Dòng Thánh Bruno,
    bản dịch Anh Ngữ: The Call Of Silent Love
    bản dịch Việt Ngữ của Piô Phan Văn Tình
    Những quyển sách cùng tác giả: The Way Of Silent Love (1993)The Wound Of Love (1994)


    Mục Lục
    Chương 1. Brunô: Một Thời Điểm, Một Nơi Chốn, Một Con Người
    Chương 2. Tu Luật
    Chương 3. Ơn Gọi
    Chương 4. Lời Mời Gọi
    Chương 5. Hãy Bán Những Gì Bạn Có
    Chương 6. Hãy Theo Thầy
    Chương 7. Bạn Sẽ Được Nhìn Thấy
    Chương 8. Xin Vâng Trong Thời Đại
    Chương 9. Trường Học Chúa Thánh Thần
    Chương 10. Vị Thầy Thiêng Liêng
    Chương 11. Phân Định Các Thần Khí
    Chương 12. Phân Định Các Thần Khí Trong Truyền Thống Đan Tu
    Chương 13. Thanh Luyện Các Đam Mê
    Chương 14. Thanh Luyện Các Đam Mê II
    Chương 15. Thanh Luyện Các Đam Mê III
    Chương 16. Thanh Luyện Các Đam Mê IV
    Chương 17. Phân Định Các Thần Khí Trong Truyền Thống Sau Này
    Chương 18. Phân Định Các Thần Khí II
    Chương 19. Trưởng Thành Tâm Lý
    Chương 20. Hành Trình Vĩ Đại



    CHƯƠNG 1 BRUNÔ: MỘT THỜI ĐẠI, MỘT KHÔNG GIAN, MỘT CON NGƯỜI

    Trước hết, hãy có cái nhìn bao quát về đời sống của thánh Brunô, bởi bạn vốn có liên hệ với ngài trong từng sự kiện. Khoảng năm 1028: Ngài sinh ra và được giáo dục sớm ở Cologne thuộc nước Đức.
    A. Đời Sống Hoạt Động (1043-1076):33 năm học tập nghiên cứu, rồi dạy học và phục vụ Giáo Hội trong các trường lớn của Rheims.
    1043: Là sinh viên ở tuổi 15, rồi phó giáo sư, giáo sĩ thuộc kinh sĩ đoàn nhà thờ chính tòa.
    1056: Écolatre, là chủ nhiệm và hiệu trưởng trường đại học được 20 năm.
    1069 hoặc1070:Là viện trưởng danh dự, tranh luận và lên án Manasseh, tổng giám mục Rheims.
    B. Bước Ngoặt (1076-1080): 4 năm
    1076: Bị quyền lợi chức vụ và tài sản của Manasseh cản bước, ngài đã cùng với Count Ebal de Ronci lánh đi, nguyện từ bỏ thế gian để sống đời đan tu.
    1080: Manasseh bị truất phế: Brunô được đề cử làm tổng giám mục, nhưng Brunô đã từ bỏ mọi sự.
    C. Đời Sống Chiêm Niệm (1080-1101): 21 năm.
    1081-1084: 4 năm.Thử nghiệm sống đời sống ẩn tu cùng với hai người bạn tại Sèche-Fontaine.
    1084-1090: 6 năm.Đặt nền móng trên núi Chartreuse (Brunô và 6 anh em: 4 tu sĩ (1 linh mục và 2 anh em tân tòng).
    1090-1101: 11 năm.Đức Urbanô II gọi Brunô về Roma làm cố vấn. Ngài vâng phục và ở lại vài tháng. Ngài theo Đức Giáo Hoàng dời về miền nam nước Italy đặt nền tảng tại thung lũng đá Santa Maria thuộc Calabria.
    1099: Viết thư cho Raoul le Verd và cho anh em của ngài ở cộng đoàn Chartreuse.
    1101: Ngài đã tuyên xưng đức tin của mình bằng cái chết.Ba mươi ba năm sống đời hoạt động - một cái nghề chuyên nghiệp. Hai mươi lăm năm sống đời chiêm niệm - một giao ước mới của cuộc đời. Bốn năm cho sự chuyển đổi từ hình thức sống thứ nhất sang hình thức sống thứ hai. Ngài có sức chịu đựng lớn lao, nhờ ơn Thiên Chúa.
    Brunô là ai? Kiến thức khả dĩ giúp chúng ta hiểu biết Brunô là quá ít nhưng những chi tiết riêng tư đáng quý đó có thể làm nên một khuôn mặt sinh động. Brunô rất ít nói về mình. Hai lá thư riêng của ngài mà chúng ta quen dùng mang tính hình thức và luật lệ, dù vậy những lá thư ấy cũng rất nồng ấm. Đương thời Brunô rất đề cao ý thức nhân vị nhưng các bản văn của ngài đều không được biết đến.
    Tuy nhiên, chúng ta có những nét phác họa rộng lớn về đời sống của ngài, đủ để vẽ nên một hình tượng mạnh mẽ và rắn chắc như pho tượng mà Houdon đã mô tả về ngài. Sẽ là cần thiết để phác họa một Brunô chiêm niệm, ẩn mình hơn là một Brunô cá biệt; không kém phần chân thật, tuy vẫn còn đó một chút “hoàn hảo”. Dường như thiếu vắng những ‘phần tối’ nơi con người và cuộc sống Brunô. Chúng ta sẽ yêu mến Brunô một cách tự nguyện nếu chúng ta biết nhiều hơn về những cuộc chiến trong nội tâm của ngài – ngay cả về những yếu đuối của ngài.
    Tất cả những cố gắng muốn hiểu biết rõ về kinh nghiệm riêng của ngài đều khởi đi từ những thông tin ít ỏi mà chúng tôi có, những thông tin ấy sẽ phát sinh những ảnh hưởng sâu sắc trên cảm nhận của người muốn hiểu biết về ngài. Chúng tôi sẽ diễn tả rõ ràng về ngài. Tuy nhiên, có phần hơi mạo hiểm. Vì chúng ta được gọi đi vào ơn gọi này, nên tiếng vọng từ trái tim chúng ta sẽ bắt gặp những con người sống đời sống Brunô và nhờ đó có thể giúp chúng ta nhận ra tinh thần của ngài.
    Đồng thời, điều quan trọng hơn cả là Brunô đã hoàn toàn thoát ra khỏi sự tò mò của chúng ta. Nhờ ơn gọi này, ngài đã dấn thân trong bí mật của Thiên Chúa. Nét mặt của ngài quang tỏa ánh sáng thiêng liêng. Mầu nhiệm phủ bóng trên con người ngài có sức hùng biện còn hơn cả lời nói của ngài. Ngài không viết một quy luật sống nào, nhưng đời sống của ngài chân thật và sâu thẳm dường nào đến mức nó trở thành nguồn phát sinh hoa trái mới còn hiện hữu cho đến thời đại chúng ta, không chỉ trong Dòng Chartreuse mà còn trong tất cả những Dòng được chia sẻ tinh thần của ngài như: anh chị em Dòng Bêlem.

    MỘT THỜI ĐẠI
    Một sử gia thế kỷ XI mô tả thế kỷ này như một thế kỷ của xích xiềng. Xích xiềng của gươm đao, luật của những người có quyền lực mạnh mẽ nhất thường là để phục vụ cho sự tham lam. Giáo Hội và quyền lực thế gian bận rộn trong những cuộc chiến chết chóc. Đó là một vấn nạn của sự tồn vong đối với Giáo Hội để tự giải thoát mình ra khỏi sự can thiệp của quyền lực trần thế trong sự hứa hẹn thăng chức giáo sĩ, giám mục, ngay cả Giáo Hoàng để rồi từ đó những giá trị thiêng liêng bị hạ thấp trước những thú vui thế gian.Những cuộc chiến giữa vua Henry IV và Giáo Hoàng Grêgôriô Hildebrand được diễn tả và dừng lại nơi những chiếc cột được dựng lên để thiêu sống. Một mặt, cải cách các công đồng, tự phê phán nghiêm khắc đối với việc đánh tráo Giáo Hoàng, tự do được xác định và quyền tự trị không còn bị những vua chúa xâm phạm vào những lãnh vực thiêng liêng; mặt khác, vẫn còn những cuộc chiến tranh, những cuộc xâm lược và những chống phá các công đồng, các Giáo Hoàng, phát sinh các cuộc ly giáo. Giáo Hội ở trong một thời điểm khủng hoảng ghê gớm.
    Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm bùng phát mãnh liệt sức sống tu trì. Có một cuộc trở về nguồn và đứng trước cảnh tượng một Giáo Hội bị tục hóa, nhiều người đã có những chọn lựa quyết liệt. Tất cả những cuộc canh tân Kitô Giáo đều được diễn tả bằng một cuộc xuất hành đi vào sa mạc. Đó là quy luật. Cũng như trong thời Constantina, nhiều người đã tìm kiếm sự thanh luyện triệt để nơi cô tịch, chính nơi đây đã giúp họ đối diện với Thiên Chúa. Thế giới Biển Đức chứng minh sức mạnh này với những cuộc cải tổ khác nhau (Cluny nổi bật nhất). Những quy luật mới của Xitô và Camaldolese đều nhấn mạnh những luật khó nghèo và cô tịch. Trong các khu rừng và những nơi cô tịch, đâu đâu cũng thấy các nhà ẩn tu. Lý tưởng đan tu không còn dành riêng cho vô số các vị ẩn sĩ ở Ai Cập nữa! Sau thời gian dài thấm nhuần đời sống chung Biển Đức hay Xitô, họ đạt tới đích mà họ đã theo đuổi.Chọn lựa của Brunô được biết đến sớm hơn trong nội dung này. Chọn lựa của ngài không phải là một tình trạng cách ly, mà đúng hơn là một sự canh tân. Có ít nhất sáu mươi lăm năm bằng chứng của nhiều cuộc thử nghiệm trong thế kỷ XI.
    Chúng ta chỉ thấy được tính chất lâu bền của nó khi đem ra so sánh với Dòng khác. Một hạt lúa sự sống được chôn vùi trong lòng đất của sự cô tịch và thinh lặng, trong một hành động của đức tin sống động, trong sự sinh sôi nảy nở của cây Thánh Giá đời đời, và trong hành động siêu việt của Thiên Chúa trên hành động của con người, thiêng liêng vượt trên vật chất. Trước hết là Thiên Chúa rồi mới đến vương quốc của Người. Yên nghỉ…là lý lẽ của tình yêu. Phi thường hơn khi tìm trong một tu viện nhỏ ở Chartreuse, không bao giờ có chuyện tìm kiếm một địa vị. Sau khi thánh đường được con người xây dựng, thì một nơi chốn được Thiên Chúa an bài, ấy là sa mạc Sèche-Fontaine, Chartreuse, Calabria. Chúng ta hãy nói về Chartreuse bởi lẽ chúng ta sống ở đây.

    CHARTREUSE
    Thung lũng hẹp nhưng có một vẻ đẹp rực rỡ quang tỏa từ nơi cung thánh của một thánh đường: một vòm sáng bao phủ lấy những bức tường nghiêng vươn cao hơn cả ngàn thước (1000m) tựa như những cánh tay đang dang ra trong cầu nguyện.
    Đan viện đầu tiên được xây dựng một nơi cao hơn thung lũng, một nơi đủ kín và thánh thiêng. Những cây đại thụ vươn mình chót vót dưới vòm trời. Nước chảy ra từ con suối trong vắt tựa pha lê. Khói mịt mù từ từ bốc lên nơi những đám củi cháy. Những âm thanh nhỏ của thế giới tự nhiên lại làm tô điểm thêm sự thinh lặng, phải hết sức chăm chú lắng nghe thì mới bắt gặp được. Một không gian cầu nguyện, một nơi ở của Thiên Chúa. Không ai có thể sống được ở đó nếu Đấng hằng cư ngụ ở đó không tuyển chọn.

    MỘT KHÔNG GIAN
    Ba mươi ba năm là cuộc đời ngắn ngủi của Chúa Giêsu, Brunô là con người của một thánh đường tráng lệ nhất ở nước Pháp – hay cả Châu Âu, vì lý do: thánh đường ở Rheims, nơi các vị vua nước Pháp được phong vương từ những thế kỷ trước. Sinh viên, giáo sĩ, giáo sư, hiệu trưởng, viện trưởng danh dự – nói chung là nơi này có ảnh hưởng lớn trên tinh thần của ngài. Truyền thống Kitô Giáo vừa rất sống động vừa bền chắc như đá và được tô điểm muôn màu muôn vẻ. Sự hiện diện của một tinh thần đơn điệu, một sự thật bị đóng đinh miên trường, sự hiện hữu xuyên thời gian của một tinh thần, của một sự thật, của cả thế giới. Một cách đơn sơ, lời dạy là âm vang của những đá tảng này, âm vang của những thực tại này sẽ không bao giờ phai tàn. Ngài cũng không được miễn sống một nơi chịu hao mòn, thiệt thòi. Một nơi nắn đúc nên chúng ta trong khuôn hình riêng của nó, nó diễn tả trí tưởng tượng của chúng ta, nó hiện hữu trong cảm nhận của chúng ta. Đức tin của Brunô chứa đầy những mầu nhiệm mà chỉ có thể diễn tả bằng hình ảnh loại suy. Phải chăng đây là bí ẩn của sự kết hợp hài hòa mà chúng ta cảm nhận được về hình ảnh của Brunô, sự hài hòa này tạo cho ngài một chút khách quan và “tính nghệ thuật điêu khắc”? Bí ẩn của sự tĩnh lặng và cao quý trong lời ngài và điềm đạm trong tính khí của ngài…
    “Semper vultu festo”, “luôn thể hiện niềm vui trên khuôn mặt”? Con người của ngài bám rễ sâu như một cây đại thụ trong thực tại trần gian và là hiện thân của Ngôi Lời Thiên Chúa nơi Giáo Hội. Chúng ta cần những con người có sức mạnh chiêm niệm như ngài biết chừng nào khả dĩ làm vững vàng một Giáo Hội đang non trẻ!

    MỘT CON NGƯỜI
    Một nhà quý tộc, một giáo sư lỗi lạc, quen sống trong một bầu khí trí thức và một mức sống xã hội cao cũng như với những tiện nghi vật chất khá đảm bảo. Ngài không có một đóng góp lớn nào cho nền thần học (như thánh Alselmô đã làm trong thời đại của ngài); nhưng không có bài viết nào của ngài mà không dựa trên Thánh Vịnh và thánh Phaolô. Dù còn trẻ nhưng ngài đã trở thành một giáo sư có chỉ số thông minh phi thường. Sự tôn trọng và thanh danh mà ngài hướng tới nằm trong khả năng dạy và học tập một cách rất hợp lý. Ngài đã trở thành tường lũy kiên vững cho truyền thống hơn là một nền tri thức mang tính lý thuyết, là đá tảng để lại âm vang. Những gì Brunô quang tỏa ra đều mang tính quân bình và khôn ngoan.Việc tranh cãi với Manasseh và việc dứt bỏ trách vụ mà ngài đã thi hành cho thấy ngài có cái nhìn đúng đắn và lập trường luân lý vững vàng. Ngài không phải là đối tượng để người ta khai thác. Sự trung thực của Brunô cùng với sức mạnh của đức hạnh, làm cho ngài có khả năng vượt thắng được mọi rào cản và nhiều nguy hiểm phát sinh từ lập trường sống của ngài. Con người của ngài trước sau như một nhưng đối với người khác thì lại rất kiên nhẫn, mềm dẻo, cụ thể với người bạn Raoul le Verd của mình, có vẻ như ngài có phần hơi nghiêm khắc và cả độc đoán nữa.Tất cả sự trổi vượt này đều được hài hòa nhờ một tình cảm nồng nàn, luôn quan tâm đến người khác, một khả năng mềm dẻo. Thế nên mọi người đều tin cậy ngài.
    Dù Brunô có bản lĩnh của một nhà lãnh đạo, nhưng nếu như mọi người có đi theo ngài là vì họ được dẫn dắt bằng chính trái tim của họ. Ngài đã nhận được phần thưởng của tình bạn. Ngài yêu thích sự cô tịch chứ không phải ghét người, bỏ đời. Xuyên suốt hành trình của mình, từ khi có quyết định trong vườn của Adam cho tới khi qua đời tại Calabria, chúng ta đều thấy bên ngài luôn có những người bạn. Nhóm đầu tiên được lập ở Chartreuse bao quanh con người của ngài đến nỗi sự hoang mang lo sợ và chia ly cứ bám lấy ngài trong hành trình tới Rôma sau sáu năm sống trong cộng đoàn. Brunô là một người bạn hơn là một người thầy, người cha. Tuy nhiên, họ đã vực dậy tinh thần sau mấy tháng đồng thời cộng đoàn quy tụ lại làm một cuộc cải tổ dưới sự hướng dẫn của Lanuin, nhưng với một vai trò hoàn toàn khác. Brunô vẫn luôn là cha chung dù khi ngài vắng mặt. Trong khi đó, cộng đoàn phải tự đảm trách đời sống riêng của mình. Phải chăng hành trình của Brunô là chất xúc tác cho cộng đoàn nguyên thủy, để rồi có thể làm cho cộng đoàn quân bình hơn trong sự hiện hữu của mình? Sự hiện diện của Brunô có khả năng duy trì một sự tin cậy quá lớn. Ai biết được sẽ ra sao? Trong mọi trường hợp, chỉ vì sự hiếu kỳ mà cộng đoàn được lập ở Calabria bao quanh Brunô và lợi ích phát sinh do sự hiện diện của ngài suốt 11 năm là không tốt lắm. Bởi lẽ đời sống đan tu Chartreuse nhanh chóng bị bỏ quên bởi một đời sống mang tính cộng đoàn hơn, phải chăng là vì chưa đủ sự chín muồi để lập nên một cộng đoàn?Nhưng Brunô để lại một tầm ảnh hưởng sâu sắc trên mọi người; chúng ta có thể xem ngài như một vị thầy thiêng liêng. Dù ít hay nhiều, ngài đều không để lại một bí quyết nào. Quy luật đời sống mà ngài đã sống với anh em đều có nguồn gốc từ truyền thống đan tu cổ điển: các tu viện được thành hình sau mẫu một Palestinian Lavra từ những thế kỷ trước, một sự cô tịch thực sự, nhưng một mặt được củng cố bởi một đời sống chung; mặt khác, cùng cử hành các giờ kinh phục vụ mỗi ngày. Lòng đạo đức của họ được nuôi dưỡng bằng nguồn mạch chung của Giáo Hội: phụng vụ, các bí tích, Lời Thiên Chúa và Chúa Kitô. Sự thinh lặng của họ không phải để câm lặng nhưng là để đánh thức lời ca ngợi và tán dương Thiên Chúa.
    Tất cả đời sống của Brunô cho thấy ngài là con người của Giáo Hội; ngài đã sống sự sống của Giáo Hội, ngài được thành hình trong bản chất của Giáo Hội và được thông chia một tương lai vô cùng. Sự phục vụ đối với việc giảng dạy trong thời điểm trước đó đi theo sau sự phục vụ cho sự cô tịch của một con người cầu nguyện. Cùng một lúc có cả sự tiếp nhận liên lỉ và sự đoạn tuyệt. Trên giường chuẩn bị ra đi, ngài đã tuyên xưng đức tin Giáo Hội. Vì trung thành với Giáo Hội mà ngài đã chống đối với tổng giám mục gây ra ô nhục – nhưng đó là một cuộc khủng hoảng lương tâm thuộc về con người này, vì con người này đã quá chú trọng tới khía cạnh quyền lực của Giáo Hội!Nếu hai lần ngài rút lui khỏi trách vụ cao trong Giáo Hội để vào sa mạc thì cũng chỉ vì muốn phục vụ tốt hơn, với những ý nghĩa khác – cầu nguyện, hy sinh, yêu mến chỉ một mình Thiên Chúa. Khi Đức Giáo Hoàng gọi ngài về phục vụ, ngài đã không ngần ngại hy sinh công việc riêng của mình, dù rằng công việc riêng ấy sẽ khó tồn tại được nếu thiếu vắng ngài.
    Chính Giáo Hội đã dẫn ngài đến với Thiên Chúa và cũng chính Giáo Hội đã thiêu đốt ngài trong ngọn lửa khao khát chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa. Trên cả dự phóng sâu thẳm nhất của thần trí ngài, của nhân cách toàn diện, tri thức, văn hóa, mỹ thuật, Giáo Hội đều chi phối trên ngài, Giáo Hội cũng cung cấp cho ngài bí ẩn cuối cùng của mình, khao khát Thiên Chúa, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và sự sống đời đời. “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giêsu Kitô.” (Ga17.3).
    Sự khao khát này đang trưởng thành trong lòng của vị giáo sư và là giáo sĩ của Rheims trong suốt những năm đó. Một con người quân bình, có chiều sâu nội tâm, trung thực, không bao giờ bị sao nhãng. Thời gian qua đi để rồi khát vọng này sẽ là con đường huyền nhiệm của sự từ bỏ những giá trị mang tính con người, dù chúng có giá trị; con đường này để lại dấu ấn trên ngài giúp ngài bước đi. Chúa Kitô chỉ mặc khải những bí ẩn cách tiệm tiến. Ở tuổi 50, Brunô mới tìm thấy con đường đi vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô. Brunô hoàn toàn nhập vai giáo sư và viện trưởng danh dự đến nỗi nó chiếm lấy những hoàn cảnh đặc biệt trong cuộc chiến của ngài với tổng giám mục Manasseh và thoát khỏi lâu đài của Count Ebal de Ronci để thực hiện một sự chấm dứt cần thiết.
    Sự cô tịch trong 4 năm đầu là một sự cô tịch mang tích ép buộc chứ không phải tự nguyện, sự nhàn rỗi của một người phóng túng. Mối dây ràng buộc danh dự và tài sản của ngài đều bị đổ vỡ một cách tàn nhẫn và bị phơi bày một cách phũ phàng. Trong hai lá thư của Brunô cho thấy ngài kiên nhẫn trình bày chủ đề về sự hư vô của thế gian đối nghịch với niềm vui đời đời. Thời gian mang tính quyết định ngay lúc chọn lựa, như ngài nói với chúng ta, là vì:“Anh em hãy nhớ lại cái ngày chúng ta gặp nhau trong vườn nhỏ gần nhà của Adam, nơi mà tôi cùng với anh em và Fulxiô đã ở. Chúng ta sẽ nói về những lúc, nếu tôi nhớ không lầm, về những thú vui sai trái và những giàu sang giả tạo của thế gian này, đem so sánh chúng với niềm vui đời đời trên thiên đàng thì chẳng đáng chi. Anh em sẽ nhớ lại những gì chúng ta đã nói với nhau, lòng chúng ta đang bùng cháy ngọn lửa tình yêu thiêng liêng, và chúng ta đã hứa, ngay cả khấn để chúng ta nắm giữ tinh thần tu trì thánh thiện càng sớm càng tốt đồng thời chạy trốn tương lai đang phủ mờ thế gian này, để chỉ tìm kiếm những niềm vui bền vững của thiên đàng”.
    “Brunô với tình yêu thiêng liêng…” Môi trường chỉ là chất xúc tác cho một nhận thức nhạy bén về nhiều giá trị trong ánh sáng của Thiện Thể duy nhất. Trực giác nền tảng của Brunô dường như chính là một nhận thức sâu sắc về bản chất lòng nhân hậu của Thiên Chúa (nhưng làm sao chúng ta có thể nói về điều này? Vũ trụ đang chứa đựng “sức nặng” của lời này “Thiên Chúa”) và sự thấm nhuần niềm hoan hỷ, tôn thờ và yêu mến mà nó đòi hỏi. “O Bonitas”.
    Brunô đã bắt gặp một đời sống dâng hiến cho sự chiêm ngưỡng Thiên Chúa, không như một sự hy sinh để rồi tiêu hao suy nhược, nhưng như một thứ hữu ích nhất cho con người, một sự đáp ứng nhu cầu thực tế nhất và sâu xa nhất của chúng ta. (x. thư gửi Raoul).“Tâm hồn chúng ta sẽ nao nức mãi tới khi được yên nghỉ trong Chúa.” (Augustinô).
    Brunô đã diễn tả cho Raoul, người bạn của ngài về những niềm vui sâu xa của một đời sống do được tháp nối với sự thật của lòng người. Ngài đã viết những lá thư của mình vào cuối đời. Chúng tràn trụa niềm vui an tĩnh, ánh sáng huy hoàng của sự bình an và sự khôn ngoan tinh tuyền. Đời sống chiêm niệm thực sự cho chúng ta một sự nếm trước hạnh phúc thiên đàng.
    “Est, videt, amat:
    In aeternitate Dei viget,
    In veritate Dei lucet,
    In bonitate Dei gaudet!”
    “Chúng ta hiện hữu, chiêm ngưỡng và yêu mến:
    Chúa vĩnh cửu là
    sự sống của ta,
    Chúa chân thật là
    ánh sáng của ta,
    Chúa thiện hảo là
    niềm vui của ta.”
    thay đổi nội dung bởi: agapaw, 07-06-2012 lúc 07:35 AM
    Chữ ký của agapaw
    Mức độ của yêu mến là yêu mến không mức độ.

  2. Có 4 người cám ơn agapaw vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com