TU ĐỨC KITÔ GIÁO

Bản Chất Sống Tu Đức:
Cảm Nghiệm Thần Linh


-----------Có thể nói, nếu tu đức học là khoa học sống đạo, thì trong các khoa học của Kitô Giáo và về Kitô Giáo, Tu Đức Học là môn học quan trọng nhất. Tại sao?

-----------Trước hết, tại vì khoa này là khoa duy nhất dạy Kitô hữu sống đạo để giúp họ làm sao để có thể đạt đến cùng đích của họ, đó là đạt đến chỗ được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, là đạt đến một tấm mức đức ái trọn hảo, là nên trọn lành như Cha trên trời, là đạt đến tầm vóc toàn vẹn của Chúa Kitô, trong khi các khoa khác (như thánh kinh học, tín lý thần học, giáo phụ học, bí tích học, thánh mẫu học, giáo luật học, giáo hội học, luân lý thần học v.v.) dạy cho họ biết về đạo mà thôi.

-----------Vẫn biết Tu Đức Học cũng chỉ cống hiến cho Kitô hữu kiến thức về đạo như các khoa khác của Kitô Giáo thôi, nay là chưa nói đến vấn đề kiến thức của khoa học về tu đức này cũng được căn cứ vào và có liên hệ với các khoa khác, như khoa thánh kinh, khoa tín lý thần học và khoa luân lý thần học v.v. Thế nhưng, dầu sao cũng phải công nhận rằng, trong các khoa học về Kitô Giáo, tu đức học là khoa thực tiễn nhất về đời sống Kitô hữu, đến nỗi, cho dù không biết gì về các khoa khác, một người giáo dân bình thường nhất cũng có thể nên thánh, như trường hợp điển hình là hai chân phước Thiếu Nhi Fatima Phanxicô và Giaxinta, thậm chí con người giáo dân bình thường song thánh đức đầy khôn ngoan còn có thể làm cố vấn cho cả các vị chức cao quyền trọng trong Giáo Hội nữa, như trường hợp của Thánh Nữ Catarina Sienna.

-----------Đó là lý do cho dù là linh mục, giám mục hay giáo hoàng, dù có thông suốt các khoa học về Kitô Giáo, có quyền mục tử để trông coi, giảng dạy và thánh hóa dân Chúa đi nữa, tất cả cũng vẫn phải sống tu đức, vẫn phải nên thánh, vẫn phải sống đức tin; bằng không, chính những kiến thức về đạo ấy, có thể sẽ trở thành phương tiện phản đạo, như đã từng xẩy ra nơi thành phần thần học gia hay nơi các vị trong hàng giáo phẩm, và các chức quyền trong giáo hội có thể sẽ trở thành một mối nguy cơ phá đạo, qua các thứ gương mù gương xấu của thành phần lãnh đạo dân Chúa, như trường hợp linh mục lạm dụng tình dục vị thành niên đồng tính ở tổng giáo phận Boston Massachusetts Hoa Kỳ đầu năm 2002.

-----------Bởi thế mới thấy rằng Vị Thánh Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị đã đạt tới bậc tu đức thần hiệp, được đưa lên tới tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:2), quả thực đã chí lý khi mạnh mẽ và minh nhiên khẳng định là nếu tôi thông biết mọi nhiệm mầu, thậm chí nếu tôi có đức tin đến chuyển núi di sông, hay nếu tôi cho dù có bác ái phục vụ đến hy sinh liều cả mạng sống mình đi chăng nữa, mà lại thiếu mất hay không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là hư không, và tất cả chỉ là vô ích (xem 1Cor 13:1-7).

-----------Đó là lý do vị Giáo Hoàng đã phong thánh nhiều nhất trong lịch sử Giáo Hội là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (1994) của mình, đã chủ trương là riêng Giáo Hội và chung thế giới đều lệ thuộc vào thành phần các vị thánh nhân, như ngài đã minh nhiên khẳng định ở chương “The Reaction of The ‘World’” (trang 176-177 ấn bản Anh ngữ) như sau:
-----------“Quyền năng thực sự của Giáo Hội ở đâu? Dĩ nhiên, qua các thế kỷ, ở Tây Âu cũng như Đông Âu, quyền lực của Giáo Hội ở nơi chứng từ của các vị thánh, của những ai chấp nhận sự thật của Chúa Kitô là của mình, những ai theo con đường là chính Chúa Kitô, và những ai sống sự sống xuất phát từ Người trong Chúa Thánh Thần. Và ở Giáo Hội Đông Phương và Tây Phương, những vị thánh này chẳng bao giờ thiếu vắng. Các vị thánh của thế kỷ chúng ta đây phần lớn là các vị tử đạo… Đó là một đám rất đông những ai, như Sách Khải Huyền nói, ‘theo Con Chiên’ (14:4). Các vị đã hoàn tất nơi cái chết tử đạo của mình những khổ đau cứu chuộc của Chúa Kitô (x Col 1:24), nên các vị cũng đã trở thành nền tảng cho một tân thế giới, cho một tân Âu Châu, và cho một nền văn minh mới”.

-----------Đó là lý do, chúng ta cũng không lạ gì, trong hai chiều kích chính yếu hay hai nguyên tố của Giáo Hội, như Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã đề cập tới trong bài giảng cho Thánh Lễ đồng tế với 15 tân hồng y vào sáng Thứ Bảy 25/3/2006, Lễ Mẹ Thai Lời, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, đó là “nguyên tố Phêrô” và “nguyên tố Thánh Mẫu”, thì nguyên tố hay chiều kích Thánh Mẫu quan trọng hơn nguyên tố hay chiều kích Phêrô. Nguyên tố Phêrô hay chiều kích Phêrô đây là những gì liên quan tới quyền bính của Giáo Hội và vai trò mục vụ của Giáo Hội, trong khi đó, nguyên tố Thánh Mẫu hay chiều kích Thánh Mẫu đây là những gì liên quan tới ân sủng và tu đức. Cũng trong cùng bài giảng này, thần học gia Giáo Hoàng Biển Đức XVI về Giáo Hội hiệp thông của chúng ta đã minh định là nguyên tố hay chiều kích Thánh Mẫu bao gồm cả nguyên tố hay chiều kích Phêrô, như sau:
-----------• “Chư huynh thân mến, thật là một ân huệ cao cả biết bao khi thực hiện việc cử hành ý nghĩa này vào Lễ Trọng Truyền Tin đây! Chúng ta có thể nhận được dồi dào ánh sáng biết bao từ mầu nhiệm này cho đời sống chúng ta làm thừa tác viên của Giáo Hội đây! Nhất là các vị tân hồng y thân mến, chư huynh có thể lãnh nhận nhiều bổ dưỡng là chừng nào cho sứ vụ làm ‘Nghị Viên’ cao cả của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô! Cơ hội thích đáng này giúp chúng ta coi biến cố hôm nay đây, một biến cố nhấn mạnh đến nguyên tố Phêrô của Giáo Hội, theo chiều hướng của một nguyên tố khác, đó là nguyên tố Thánh Mẫu, một nguyên tố thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Tầm vóc quan trọng của nguyên tố Thánh Mẫu trong Giáo Hội, sau công đồng chung Vaticanô II, được đề cao một cách đặc biệt bởi Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tiền nhiệm yêu dấu của tôi, hợp với khẩu hiệu của ngài ‘Totus tuus’…

-----------“Hết mọi sự trong Giáo Hội, hết mọi cơ cấu và thừa tác vụ, bao gồm cả thừa tác vụ của Thánh Phêrô và của các vị thừa kế ngài, đều được ‘bao gồm’ trong áo choàng của Vị Trinh Nữ này, trong chân trời đầy ân phúc của lời Mẹ ‘xin vâng’ theo ý muốn của Thiên Chúa”.
-----------Tất nhiên, về cơ cấu và tổ chức thì chiều kích hay nguyên tố Phêrô bao giờ cũng quan trọng hơn và cần thiết hơn, tuy nhiên, căn cứ vào cùng đích của đời sống Kitô hữu là tình trạng được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa thì chiều kích hay nguyên tố Phêrô được coi là phương thế dẫn Kitô hữu tới tình trạng hiệp thông thần linh là đích điểm của đời sống Kitô hữu này. Chưa nói tới vấn đề đó là chính nhờ chiều kích hay nguyên tố Thánh Mẫu, tức nhờ và qua lời ‘xin vâng’ đầy hiệp thông thần linh của Mẹ Maria (theo tu đức) trong giây phút Truyền Tin, mới có Lời Nhập Thể, mới có Thánh Thể và thiên chức linh mục.

-----------Thực tế cho thấy, cảm nghiệm thần linh, một cảm nghiệm của đời sống tu đức, là kiến thức cao nhất trong các kiến thức của con người và nơi con người, vì nó thuộc về lãnh vực và tầm mức siêu nhiên hay siêu việt, một lãnh vực chỉ có Thần Chân Lý mới dạy cho con người biết được “trong âm thầm (và) trong tăm tối” (x Mt 10:27) mà thôi.

-----------Đúng vậy, kiến thức khoa học, một kiến thức được căn cứ vào sự quan sát của giác quan, chỉ có thể vươn tới nguồn gốc của vũ trụ này bằng giả thuyết cho rằng vũ trụ xuất hiện là do hiện tượng đại bùng nổ (big bang) đầu tiên. Thế rồi, cái giới hạn của khoa học về nguồn gốc của vũ trụ được kiến thức triết học, căn cứ vào lý trí suy luận, cho biết rằng tất cả mọi sự đều phát xuất từ một Nguyên Lý Đệ Nhất (the First Principle), nhưng không hề cho biết gì về bản chất của Nguyên Lý Đệ Nhất này. Nhờ thần học, một kiến thức được căn cứ vào Mạc Khải Thánh Kinh, cho biết Nguyên Lý Đệ Nhất của triết học ấy đó là Thiên Chúa Hóa Công cũng là Đấng Cứu Độ Nhân Trần và là Đấng Canh Tân Mọi Sự.

-----------Về phương diện luân lý cũng thế, kiến thức khoa học chỉ có thể cắt nghĩa được nguồn gốc những hiện tượng thiên tai, (chẳng hạn động đất ở Pakistan vào tháng 10/2005 sát hại cả 100 ngàn nhân mạng, hay biển động sóng thần ở Nam Á ngày 26/12/2005, sát hại cả 200 ngàn người v.v.), theo nhận xét tự nhiên liên quan đến các định luật vật lý học. Kiến thức triết học thì giải thích những sự dữ xẩy ra này, nhất là sự dữ về luân lý, một là theo nhị nguyên thuyết, một chủ trương cho rằng trời đất này có hai quyền lực chống lại nhau, âm dương, ánh sáng và bóng tối, lành dữ, hai là theo Thánh Âu Quốc Tinh cho rằng sự dữ là tình trạng thiếu hụt sự thiện v.v. Kiến thức thần học lại cho rằng Thiên Chúa Tối Cao và Toàn Năng là Đấng Quan Phòng mọi sự và làm mọi sự cho lợi ích của con cái mình, nên có thể biến sự dữ thành sự lành cho con người. Còn cảm nghiệm thần linh thì làm cho Kitô hữu thấy được những dấu chỉ thời đại để có thể kịp thời đáp ứng bằng các tác động tin yêu tương xứng.