Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhân ngày hoà bình thế giới 1-1-2011 ( Phần 2)

Chiều kích công cộng của tôn giáo

6. Tự do tôn giáo, cũng như mọi quyền tự do khác, tuy ở trong lãnh vực bản thân, nhưng cũng được thực hiện trong tương quan với tha nhân. Một tự do không có tương quan thì không phải là tự do đầy đủ. Cả tự do tôn giáo cũng không đóng khung trong chiều kích cá nhân mà thôi, nhưng được thể hiện trong cộng đoàn và xã hội của mình, phù hợp với đặc tính của con người là một hữu thể có tương quan và với bản chất công khai của tôn giáo.

Đặc tính có quan hệ là một yếu tố quyết định của tự do tôn giáo, thúc đẩy cộng đoàn các tín hữu thực thi tình liên đới để mưu công ích. Trong chiều kích cộng đoàn này, mỗi người vẫn giữ nguyên đặc tính có một không hai và không thể sao lại, và đồng thời được bổ túc và thể hiện trọn vẹn.

Một điều không thể phủ nhận là sự đóng góp mà cộng đoàn tôn giáo mang lại cho xã hội. Có nhiều tổ chức từ thiện và văn hóa chứng tỏ vai trò xây dựng của các tín hữu cho đời sống xã hội. Điều quan trọng hơn nữa chính là sự đóng góp của tôn giáo về luân lý đạo đức trong lãnh vực chính trị. Không được gạt bỏ hoặc cấm đoán sự đóng góp này, nhưng phải hiểu đây là một đóng góp giá trị cho sự thăng tiến công ích. Trong viễn tượng này cần nói đến chiều kích tôn giáo của văn hóa, được hình thành qua bao thế kỷ nhờ những đóng góp của tôn giáo về mặt xã hội và nhất là về luân lý đạo đức. Chiều kích này không hề tạo nên một sự kỳ thị những người không chia sẻ cùng một tín ngưỡng, trái lại nó củng cố sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập và liên đới.

Tự do tôn giáo, sức mạnh của tự do và văn minh: những nguy cơ bị lợi dụng.

7. Sự lợi dụng tự do tôn giáo để che đậy những lợi lộc thầm kín, ví dụ để lật đổ trật tự đã được thiết định, chiếm hữu tài nguyên hoặc duy trì quyền bính từ phía một phe nhóm, có thể tạo nên những tai hại rất lớn cho xã hội. Thái độ cuồng tín, cực đoan, những hành động trái với phẩm giá con người, không bao giờ có thể biện minh được và càng không thể thực hành những điều đó nhân danh tôn giáo. Không thể lợi dụng sự tuyên xưng một tôn giáo và cũng không thể áp đặt sự tuyên xưng ấy bằng võ lực. Vì thế, các quốc gia và các cộng đồng con người không bao giờ được quên rằng tự do tôn giáo là điều kiện để tìm kiếm sự thật và không thể bị áp đặt sự thật bằng bạo lực nhưng bằng ”sức mạnh của chính sự thật” (10). Theo ý nghĩa đó, tôn giáo là sức mạnh tích cực và là động lực thúc đẩy xây dựng xã hội dân sự và chính trị.

Làm sao có thể phủ nhận đóng góp của các tôn giáo lớn trên thế giới cho sự phát huy văn minh? Sự chân thành tìm kiếm Thiên Chúa đã đưa tới sự tôn trọng nhiều hơn đối với phẩm giá con người. Các cộng đồng Kitô, với gia sản các giá trị và nguyên tắc của mình, đã đóng góp nhiều cho sự ý thức về con người và các dân tộc về căn tính và phẩm giá của mình, và cho sự chinh phục của các định chế dân chủ, cũng như cho sự củng cố các quyền con người và những nghĩa vụ tương ứng.

Ngày nay, trong một xã hội ngày càng hoàn cầu hóa, các tín hữu Kitô cũng được mời gọi, không những qua sự dấn thân trách nhiệm về mặt dân sự, kinh tế và chính trị, nhưng còn qua chứng tá tin yêu của mình, góp phần quí giá vào công trình, tuy cam go nhưng rất phấn khởi, cho công lý, cho sự phát triển toàn diện con người và cho trật tự đúng đắn của các thực tại con người. Sự loại trừ tôn giáo ra khỏi lãnh vực công cộng tước bỏ môi trường sinh tử đó của xã hội, một môi trường cởi mở hướng về siêu việt. Nếu không có kinh nghiệm ưu tiên ấy thì sẽ rất khó hướng xã hội về những nguyên tắc luân lý đạo đức phổ quát và khó thiết lập các trật tự quốc gia và quốc tế trong đó các quyền và tự do cơ bản có thể được hoàn toàn nhìn nhận và thực thi, như các mục tiêu của tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948. Và rất tiếc là các mục tiêu ấy vẫn không được để ý hoặc bị nói ngược lại.

Một vấn đề công lý và văn minh: trào lưu cực đoan và sự thù nghịch đối với các tín hữu làm thiệt hại cho đặc tính đời tích cực của Nhà Nước

8. Sự quyết liệt lên án mọi hình thức cuồng tín và tôn giáo cực đoan cũng phải thúc đẩy chống lại tất cả mọi hình thức thù nghịch chống lại tôn giáo, chúng giới hạn vai trò công cộng của các tín hữu trong đời sống dân sự và chính trị.

Ta không thể quên rằng trào lưu tôn giáo cực đoan (duy căn) và duy đời là những hình thức tương ứng và cực đoan của sự phủ nhận đa nguyên hợp pháp và nguyên tắc đời. Thực vậy cả hai thái độ đó đều tuyệt đối hóa nhân sinh quan hẹp hòi và phiếm diện, trong trường hợp thứ nhất, nó tạo điều kiện dễ dàng cho những hình thức tôn giáo thủ cựu và trong trường hợp thứ hai nó cổ võ chủ thuyết duy lý. Xã hội nào muốn dùng bạo lực để áp đặt, hoặc ngược lại, phủ nhận tôn giáo, là một xã hội bất công đối với con người và Thiên Chúa, và đối với cả chính mình nữa. Thiên Chúa kêu gọi nhân loại đến với Ngài trong ý định yêu thương, ý định này liên hệ tới toàn thể con người trong chiều kích tự nhiên và tinh thần, và đòi con người phải đáp lại trong tự do và trách nhiệm, với trọn tâm hồn và trọn hữu thể của mình, theo chiều kích cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cả xã hội, trong tư cách là một sự biểu hiện con người và toàn thể các chiều kích cấu thành của con người, cũng phải sống và được tổ chức làm sao để giúp con người cởi mở đối với siêu việt. Chính vì thế, không thể thiết lập các luật lệ và định chế của xã hội mà không để ý tới chiều kích tôn giáo của các công dân hoặc hoàn toàn loại bỏ chiều kích ấy. Nhờ sự tham gia trong tinh thần dân chủ của mọi công dân ý thức về ơn gọi cao cả của mình, các luật lệ và định chế phải tương xứng với con người để có thể giúp con người trong chiều kích tôn giáo của họ. Vì không phải là điều do Nhà Nước tạo nên, nên chiều kích tôn giáo không thể bị Nhà Nước lèo lái; đúng hơn, Nhà Nước phải nhìn nhận và tôn trọng chiều kích ấy.

Hệ thống luật pháp ở mọi cấp độ, quốc gia và quốc tế, khi cho phép hoặc tỏ ra dung dưỡng trào lưu cuồng tín về tôn giáo hoặc chống tôn giáo thì hệ thống ấy lỗi sứ mạng của mình là bảo vệ và thăng tiến công lý cũng như quyền của mọi người. Những thực tại này không thể bị tùy thuộc ý riêng của nhà lập pháp hoặc đa số, vì như Cicero đã từng dạy, công lý không phải chỉ là làm luật và áp dụng luật, nó còn là một cái gì hơn nữa. Công lý bao hàm sự nhìn nhận phẩm giá của mỗi người (11), mà nếu không có tự do tôn giáo được bảo đảm và được sống theo yếu tính của nó, thì phẩm giá ấy sẽ bị què quặt và thương tổn, có nguy cơ phải chịu sự thống trị của các thần tượng, của những thiện ích tương đối được tuyệt đối hóa. Tất cả những điều đó có nguy cơ đưa xã hội đến chế độ độc tài về chính trị và ý thức hệ vốn đề cao công quyền một cách thái quá, đồng thời bóp nghẹt hoặc cưỡng bách tự do lương tâm, tự do tư tưởng và tự do tôn giáo như thể những quyền tự do này cạnh tranh với công quyền.

Đối thoại giữa các tổ chức dân sự và tôn giáo

9. Gia sản các nguyên tắc và các giá trị được biểu lộ qua cuộc sống tôn giáo chân chính là một điều phong phú cho các dân tộc và phong hóa của họ. Gia sản ấy trực tiếp nói với lương tâm và lý trí con người nam nữ, nhắc nhở cho họ giới luật hoán cải luân lý, thúc đẩy họ vun trồng việc thực hành các nhân đức, và làm cho họ xích lại gần nhau trong tình yêu thương, trong tinh thần huynh đệ, như những phần tử của đại gia đình nhân loại (12).

Phải luôn luôn tôn trọng chiều kích công cộng của tôn giáo, trong niềm tôn trọng đặc tính đời tích cực của các tổ chức quốc gia. Với mục đích đó, một điều cơ bản là phải thiết lập sự đối thoại lành mạnh giữa các tổ chức dân sự và tôn giáo để phát triển toàn diện con người và sự hòa hợp xã hội.

Sống trong tình thương và sự thật

10. Trong thế giới hoàn cầu hóa, làm cho xã hội ngày càng đa chủng tộc và đa tôn giáo, các tôn giáo lớn có thể là một yếu tố quan trọng giúp đoàn kết và mang lại hòa bình cho gia đình nhân loại. Từ những xác tín tôn giáo của mình và tìm kiếm công ích hợp lý, các tín đồ tôn giáo được mời gọi sống sự dấn thân của mình với tinh thần trách nhiệm trong một bối cảnh tự do tôn giáo. Giữa những nền văn hóa tôn giáo khác nhau, phải loại bỏ tất cả những gì trái ngược phẩm giá người nam và người nữ, và đối lại, cần phải đón nhận tất cả những gì là tích cực cho sự sống chung dân sự như một kho tàng quí giá.

Môi trường công cộng mà cộng đoàn quốc tế dành cho các tôn giáo và cho đề nghị của tôn giáo về một ”cuộc sống tốt đẹp”, giúp làm nổi lên một mẫu mực chung về sự thật và sự thiện, cũng như một sự đồng thuận luân lý, là những điều thiếu yếu đối với một cuộc sống chung đúng đắn và an bình. Do vai trò cũng như ảnh hưởng và uy tín trong các cộng đoàn của mình, các vị lãnh đạo các tôn giáo lớn là những người đầu tiên được mời gọi tôn trọng và đối thoại với nhau.

Về phần các tín hữu Kitô, họ được niềm tin nơi Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô kêu gọi hãy sống như anh em, gặp gỡ nhau trong Giáo Hội và cộng tác vào việc xây dựng một thế giới trong đó cá nhân và các dân tộc, sẽ ”không còn làm điều ác và bạo hành (..) vì sự nhận biết Thiên Chúa sẽ đầy tràn trái đất như nước phủ lòng biển cả” (Is 11,9).


(còn tiếp )