| 
 |  
 
  MỐI QUAN HỆ GIỮA NHO GIÁO VÀ CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM Nguyễn Hồng Dương  Đạo  Công giáo truyền bá và bước đầu đứng chân ở  Việt Nam vào thế kỷ XVII.  Đây là thời kỳ nhà Lê Trung hưng, kế tục thời  kỳ trước, nhà Lê vẫn sử  dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng trị nước. Các  tôn giáo khác như Phật giáo,  Đạo giáo vẫn thịnh hành trong nhân gian và  cũng có những ảnh hưởng nhất  định trong đường lối trị nước của nhà Lê. 
Sự   xuất hiện của Công giáo ở Việt Nam ngay từ buổi đầu đã là sự kiện tôn   giáo đặc thù. Đó là việc truyền bá một tôn giáo hoàn toàn xa lạ với các   tôn giáo truyền thống. Chẳng những thế tôn giáo này đã không thừa nhận   các tôn giáo đang hiện diện, coi tất cả là tà giáo là đạo dối. 
Các  giáo sĩ Công giáo dựa vào tín lý, giáo lý Công giáo tấn công vào hệ tư  tưởng Nho giáo, hệ tư tưởng trị nước thời bấy giờ. 
Về   phía Nho giáo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình các nhà Nho mà đại   biểu của nó là nhà Vua, là các Nho thần, tất nhiên cũng tấn công lại một   cách mạnh mẽ những tư tưởng của Công giáo. Từ đó hình thành nên cuộc   đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng mang tính học thuật. 
Song   cùng với thời gian, nhất là từ sau khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo   (1874) giữa Nho giáo và Công giáo dần dần hình thành nên mối tương giao   và hoà hợp. 
Bài viết này tập trung vào hai nội dung chính  trong mối quan hệ giữa Nho giáo với Công giáo ở Việt Nam là xung đột và  dung hợp. 
Xung đột 
Xung  đột mà bài viết này đề cập  là xung đột trên lĩnh vực tư tưởng có tính  học thuật được thể hiện qua  các văn kiện và các tác phẩm. 
Về  văn kiện là các  đạo dụ, điều lệ của Vua, Chúa, hịch của phong trào Văn  Thân, là các Thư  chung và một số văn kiện khác của Giáo hội Công giáo. 
Về  tác phẩm là các trước tác của nhà vua, nhà nho và các giáo sĩ. 
Trước  hết xin bắt đầu từ phía Công giáo.   Do khuôn khổ bài viết, về văn kiện chúng tôi chỉ đề cập đến thư chung,   về tác phẩm là hai trước tác của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và cuốn Hội  đồng tứ giáo. 
Thư chung:  Thư  chung là loại hình văn bản của giám mục soạn gửi cho cộng đồng tín  hữu,  hàng giáo phẩm vào tu sĩ thuộc giáo phận mà giám mục đó cai quản.  Nội  dung thư chung rất đa dạng trong đó có một số thư chung giám mục đề  cập  đến Nho giáo để rồi ngăn cấm không được tham dự các nghi lễ của Nho   giáo. Thư chung được đọc công khai trong nhà thờ. Một trong những thư   chung theo chúng tôi là tiêu biểu về việc đề cập đến Nho giáo là thư   chung của Giám mục Phêrô Maria Đông giám mục giáo phận Tây Đàng Ngoài đề   năm ? (1895). Thư chung được tập hợp trong cuốn: Sách thuật lại các  thư chung địa phận tây Đàng Ngoài in tại Kẻ Sở 1908 với tựa đề: Về  các việc dối trá.  Nội dung: “Cắt nghĩa bốn điều sau này: Một là  những sự không nên thờ;  hai là những sự không nên làm về đàng phụng sự;  ba là những sự không nên  bàn về đàng hiếu sự; bốn là những việc dối  trá không nên tin không nên  kiêng”. Phần: Điều thứ I -Những sự không  nên thờ viết: “Vậy trong  những cách lỗi nhân đức thờ phượng, kẻ có  đạo năng dịp mắc phải hơn thì  có ba sự này: một là thờ Thần Phật, hai  là thờ Khổng Tử, ba là thờ ông  bà bà ông vải”. “Thờ Khổng Tử - Ông  Khổng cũng là người thế gian như Bụt  đã nói trên này, là quân tử nước  Ngô đã làm thày đồ dạy những chữ  nghĩa, song chẳng biết cội rễ và cũng  sau hết mình là làm sao, nên không  làm thày dạy dỗ thiên hạ được. Cho  rằng là người khôn ngoan lý sự phần  đời hơn nhiều người khác, nhưng mà  nó dạy điều gì có lập công, gì trước  mặt Đức Chúa Lời đáng thờ lạy đáng  tế lễ đáng cầu khấn ru? 
Mà  bây giờ dù Thần dù Phật dù Khổng Tử cũng đã  chết cả rồi, còn có quyền  thế cứu giúp phù hộ người ta làm sao? Hẳn  thật ai tin nó thờ nó là thờ  dối trá và làm tôi ma quỉ”(1). 
Phần:  Điều thứ II - Những sự không được làm về đàng phụng sự  viết:  “Trong nước này kẻ vô đạo thờ Khổng Tử như đấng thánh có phép phù  hộ,  cùng xin người giúp sức cho mình được sáng dạ, được thi đỗ đơm tế  mời  về hưởng cỗ bàn vân vân, ấy là những điều dối trá tỏ tường kẻ có đạo   chẳng nên thông công sự ấy, khi làm ở nhà thày đồ, hay là trong dịp thi   cử nơi văn miếu văn chỉ; Cũng không nên lạy thần vị bàn án đã lập mà   thờ ông Khổng bao giờ”. 
Hai tác phẩm của giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Trước hết là cuốn Phép giảng tám ngày.   Đây là sách giáo lý đầu tiên bằng chữ quốc ngữ dùng cho cộng đồng tín   đồ Công giáo ở Việt Nam lúc bấy giờ và còn ảnh hưởng lâu dài đến tận sau   này. “Phép giảng tám ngày… là sách giáo lý trình bày trong mầu sắc  minh  giáo”(2). Sở dĩ tác giả Nguyễn Khắc Xuyên gọi như vậy là vì trong  Phép  giảng tám ngày, Rhodes dành một phần nội dung chỉ trích những tôn  giáo,  tín ngưỡng truyền thống Việt Nam trong đó có Nho giáo, cho đó là  đạo tà,  đạo giả, dị đoan. Cuốn sách viết: “Trong Đại Minh còn giáo thứ  ba, gọi  là Đạo Nho, những kẻ hay chữ thì theo đấy, mà thờ ông Khổng vì  sự ấy  trong Đại Minh thì lấy ông Khổng làm nhất mà gọi Thánh hiền, là  Thánh và  hiền nhất vậy. Song le nói thể ấy chẳng phải lẽ đâu, vì chưng  hay là  ông Khổng Tử ấy biết đức Chúa cả làm nên mọi sự, là cội rễ mọi  sự thánh,  mọi sự lành, hay là chẳng biết. Ví bằng đã biết, mà làm thầy,  thì phải  dạy đầy tớ cho biết cùng, mà thờ đấy cho nên. Song le ông  Khổng chẳng có  làm sự ấy, vì vậy chẳng phải hiền, chẳng phải thánh,  thật là độc  dữ”(3). 
So với tác phẩm: Phép giảng tám ngày, thì  tác phẩm: Lịch sử vương quốc Đàng Ngoàiđạo  Nho.  Người khai sáng đạo này là một người Tầu tên là Khổng Tử, sinh  sống ở  nước Tàu, theo sử liệu vào cùng thời với Aristote bên Hi Lạp,  nghĩa là  vào khoảng ba trăm năm trước Thiên chúa giáng sinh. Người Đàng  Ngoài tôn  ông là thánh nhân, nhưng vô lý và trái lẽ, như tôi đã  có lần thuyết phục họ. Bởi vì, theo tôi, nếu ngài được gọi là thánh  nhân, thì ngài phải biết có một đức chúa Trời dựng nên trời và đất,  nếu ngài không biết thì sao có thể là thánh  được; không biết đấy  là cội nguồn và là nguyên nhân mọi sự thánh, ngài  chỉ thông truyền cho  loài có lý trí bằng sự hiểu biết và yêu mến Thiên  chúa cao cả. Nếu ông  nhận biết, vì ông tự xưng là bậc tiến sĩ và tôn sư  thì ông phải giảng  dạy sự hiểu biết cần thiết cho sự cứu rỗi, đàng này  ông không dạy rõ  ràng trong kinh sách của ông, ông không đề cập tới  Thiên Chúa nguyên lý  mọi sự, thì sao có thể gọi ông là thánh(4). 
Một  trong những tác phẩm của Công giáo đề cập đến Nho giáo cần phải kể để  là cuốn: Hội đồng tứ giáo  (còn gọi là Hội đồng tứ giáo danh sư).  Nội dung tác phẩm mang tính minh  đạo. Thông qua một hội đồng mang tính  giả định với tên gọi “Hội đồng tứ  giáo” gồm 4 người đại diện cho 4 tôn  giáo thời bấy giờ là Phật giáo,  Nho giáo, Đạo giáo và Công giáo, gồm  Nho sĩ (Nho giáo), Thượng Tọa (Phật  giáo), Đạo giáo (Pháp sư), Tây Sĩ  (Công giáo). Bốn vị đại diện “ngồi  với nhau”, tranh luận về ba vấn đề: 
Nguồn  gốc con người. 
Sống phải làm gì? 
Chết rồi đi về đâu? 
Trong   tranh luận Nho sĩ luôn là người bắt đầu, Tây Sĩ là người sau cùng để   kết luận vấn đề và tất nhiên là bác lại ý kiến của đại diện 3 tôn giáo.   Ví dụ: 
Để  trả lời vấn đề thứ hai (Sống ở đời làm gì),  Nho sĩ (…) lấy lời Đức  Khổng mà giảng rằng: Sống ở đời người ta phải tu  ngũ đức: nhân, nghĩa,  lễ, trí, tín, và giữ ngũ luân: Quân thần, phụ  tử, phu phụ, huynh đệ,  bằng hữu. Thầy pháp sư đưa ra câu của đức thánh  Lão tử: Vật vi, vật ý,  vật biện (chớ làm gì, chớ có ý gì, chớ phân  biệt). Vị Hòa thượng thì  nhắc lại người ta phải tu ngũ đức: Thí của,  giữ chay, chịu nhục, tu đức,  giữ lòng thật. Lại cấm 5 điều: một là cấm  sát sinh, hai là cấm trộn  cướp, ba là cấm tà dâm, bốn là cấm nói dối,  năm là cấm uống rượu. Tây sĩ  cũng dựa vào Thánh kinh Công giáo: Người  ta phải giữ Thập giới (10 điều  răn), phải giữ Thất qui (7 phép bí  tích)(5). 
Với  ba vấn đề tranh luận trên, Công giáo đã trực  diện đi vào ba vấn đề căn  cốt mà các tôn giáo phải lý giải. Về hình  thức là tranh luận là đối  thoại nhưng thực chất là độc thoại với chủ ý  là đánh đổ các tín lý của  Nho, Phật, Đạo, đề cao, xác lập tín lý Công  giáo. 
Hội  đồng tứ giáo là cuốn sách có kỷ lục về lần  xuất bản. Có tác giả cho  rằng nhà in Tân Định (Sài Gòn) đã tái bản cuốn  sách này tới 15 lần. Một bản in tại nhà in Thái  Bình, tới 12 lần(6). 
Việc  cuốn sách được tái bản nhiều lần ở hai miền Nam, Bắc cho  thấy hẳn cuốn  sách đã có tác dụng rất lớn không chỉ trong việc minh  đạo mà còn thể  hiện trong đấu tranh về tín lý của Công giáo ở Việt Nam  với Nho giáo,  Phật giáo, Đạo giáo. 
Xung đột từ phía Nho giáo 
Bắt   đầu từ thời Lê(7), Nho giáo được dùng làm hệ tư tưởng trị nước. Nhà  Vua  đồng thời là nhà Nho, các bậc đại thần cũng đều là là Nho sĩ. Họ  bước  vào chốn quan trường qua thi cử Nho học. Vì vậy cuộc đấu tranh  trên lĩnh  vực tư tưởng của Nho giáo với Công giáo khá đa dạng và sinh  động. Trước  hết là cách nhìn nhận, phê phán của vua, chúa nhà Lê và  tiếp theo là  các vua Nguyễn qua các đạo dụ, qua các trước tác của nhà  vua… Một quan  điểm xuyên suốt cho đến khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm  đạo (1874, Công  giáo được xem là Tà đạo đối lập với Chính đạo - Nho học  / giáo). 
Thời Lê, năm Cảnh Trị thứ nhất (1663) đời vua Lê  Huyền Tông, tháng 10, mùa đông. Nhắc rõ lai lịch cấm người theo tà đạo  Gia Tô.  
Trước  đây có người Tây Dương gọi là Hoa Lang Di,  vào nước ta, đem đạo dị đoan  của Gia Tô lừa dối, dụ dỗ làm ngu muội dân  chúng, những người quê mùa  nông nổi phần nhiều tín mộ đạo ấy, họ lập  tòa giảng, nghe giảng đạo, sự  mê hoặc đắm đuối mỗi ngày càng rộng.  Trước đã hạ lệnh đuổi người truyền  đạo ấy đi, nhưng còn bọn tiểu nhân  thấm sâu vào tập tục ấy chưa thay đổi  được”(8). 
Nhâm   Thìn, năm thứ 8 (1712), tháng 3, mùa xuân, lại hạ lệnh cấm tà đạo Gia   Tô. Triều đình đã nhiều lần ra điều lệnh cấm tà đạo Gia Tô nhưng quân  và  dân sở tại tham của đút lót của họ, che giấu lẫn nhau, nên đạo ấy  lan  ra làm người ta mê hoặc mỗi ngày một sâu rộng(9). 
Năm   1754, tháng 9, mùa hạ. Lại cấm tà đạo Hòa Lan… Đạo Thiên chúa cũng gọi   là “Thập tự giáo”. Giáo lý này dùng Thiên đường, địa ngục để phân biệt   báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng giống như đạo Phật, có thêm vào   thuyết xưng tội, rửa tội nữa”(10). 
Phong  trào Tây Sơn  nhìn nhận Công giáo là “Một tôn giáo không nhìn nhận cha,  không nhìn  nhận vua, không thờ kính thần linh”(11). Nhà Tây Sơn thực sự  lo ngại  ảnh hưởng tiêu cực của Công giáo tới Nho giáo “Từ khi các nước  phương  Tây lén lút đưa đạo của họ vào trong vương quốc này, ta biết rằng  sự  tôn thờ Đức Khổng Tử mỗi ngày một giảm và hầu như hoàn toàn bị bỏ   rơi”(12). 
Do  tính chất phức tạp của Công giáo dưới triều  Nguyễn nên các văn bản của  triều Nguyễn khi đề cập đến Công giáo là gay  gắt. Trong Điều lệ hương đảng,  ban hành năm Giáp Tý (1804) thời  vua Gia Long viết: “Lại như đạo Gia Tô  là tôn giáo nước khác truyền  vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên  đường, địa ngục khiến kẻ ngu phu,  ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm  thành quen mê mà không biết”(13). 
Thời  vua Minh Mạng, năm 1834 ban hành Thập huấn điều  giáo dục dân  chúng trên nền tảng Nho giáo và do vậy cũng đồng thời đả  kích Công  giáo, coi Công giáo là Tà đạo “làm cho bại hoại luân lý, hư  hỏng giáo  hóa, không thể tin được” (Điều 7 - Sùng Chính học)(14). 
Năm   Minh Mệnh thứ 13 (1832), nhân việc tha tội cho dân ở phường Nam Dương   Tây, tỉnh Quảng Trị vốn theo Công giáo nay xin bỏ, vua Minh Mệnh dụ Bộ   Hình rằng: Đạo Gia Tô nguyên từ người Tây Dương đem vào truyền bá đã   lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thử nghĩ : Cái   thuyết thiên đường, tóm lại chỉ đều là chuyện hoang đường, không có bằng   chứng. Hơn nữa không kính thần minh, chẳng thờ tiên tổ, rất trái với   chính đạo. Thậm chí lập riêng nhà giảng, tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô   phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm. Những việc trái luân lý, hại phong   hóa, điều ấy kể ra còn nhiều, thực đã phạm đến pháp luật”(15). 
Những   nội dung trên về cơ bản được nhắc lại vào năm Minh Mệnh thứ 20 (1839)   qua việc vua bảo Bộ Hình: “Thử nghĩ cái việc Thập ác, Giêsu, tóm lại   chẳng có đạo lý gì, mà cái thuyết thiên đường, nước phép lại là vô lí.   Thậm chí thác việc cầu hồn để lừa khoét con ngươi người (chết), mượn   danh đồng trinh để dâm ô vợ con người ta, thương tổn phong hoá”(16). 
Nhìn   nhận Công giáo là tà đạo, không thờ tổ tiên, không kính quỉ thần đặt  ra  thuyết thiên đường, nước phép… cũng được các vua Thiệu Trị, Tự Đức  nhắc  trong các dụ. 
Về trước tác đáng kể là tác phẩm Đạo biện  (biện luận về đạo) trong Ngự chế văn tập của 
Cách  nhìn nhận, phê  phán Công giáo của vua, chúa mà chúng tôi dẫn ra ở trên  là do đứng trên  quan điểm Nho giáo. Mặt khác có thể nói các vua, chúa,  ngay cả vua Tự  Đức một ông vua để tâm nghiên cứu Công giáo thì sự hiểu  biết về Công  giáo còn quá sơ sài. Thậm chí còn hiểu sai. 
Bậc   quân vương thì như vậy, các Nho thần hiểu biết về Công giáo thậm chí   còn kém hơn, sai lạc hơn. Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhân nhà vua định   rõ điều lệ cấm chỉ tà giáo Tây Dương, Tả phó đô ngự sử viện Đô sát Phan   Bá Đạt tâu nói: “Tà giáo Tây Dương làm say đắm lòng người, thực là một   đạo kiệt hiệt hơn hết trong các đạo dị đoan…Mã Song khai rằng thầy  thuốc  nước hắn, nhân người sắp chết, khoét lấy mắt phơi khô, hợp với  hai vị a  nguỵ và nhũ hương, tán nhỏ chế thuốc, trị bệnh ho đờm. Lại tục  truyền  tà giáo Tây Dương thường khoét mắt người, và cho 1 trai 1 gái, ở  chung  một nhà có tường ngăn cách, lâu ngày động tình dục, nhân đấy rập  cho  chết bẹp, lấy nước (xác chết đó) hoà thành bánh (thánh) mỗi khi  giảng  đạo cho mọi người ăn, khiến cho mê đạo không bỏ được. Cả đến  người theo  đạo khi trai gái lấy vợ chồng, thì đạo trưởng đem người con  gái vào nhà  kín, lấy danh nghĩa là để giảng đạo, thực ra là để dâm  ô”(19). 
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng của Nho giáo  với Công giáo còn được thể hiện qua tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục  (Ghi chép những chuyện kín của đạo Gia Tô Tây Dương). Về tác giả, tác  phẩm và văn bản đã được đề cập trong Lời giới thiệu của cuốn  sách(20). Do khuôn khổ của bài viết chúng tôi không thể phân tích sâu  những ý kiến của mình khi cho rằng tác phẩm Tây Dương Gia Tô bí lục   là cuốn sách do các nhà Nho viết ra nhằm mục đích phê phán Công giáo.   Đây là công trình của nhiều người mặc dù trên đầu sách có tên tác giả. 
Nội   dung cuốn sách đề cập có nhiều phần sai lạc và phóng tác bởi sự hiểu   biết hạn chế và còn bởi chủ đích của cuốn sách. Cách hành văn nhiều chỗ   thô thiển, đôi khi thô lỗ. Bởi vì chủ đích của cuốn sách là thông qua   việc đề cập đến lai lịch, hành trạng chúa Giêsu và việc truyền bá Công   giáo vào Việt Nam, Trung Quốc để “đánh đổ” tôn giáo này về mặt học   thuật. Điểm tựa để phê phán Công giáo là tín ngưỡng cổ truyền đặc biệt   là hệ tư tưởng Nho giáo. Qua đó cũng chính là để xác lập tư tưởng Nho   giáo. 
Với  độ dày hơn 300 trang cho thấy sự dày công của  những nhà Nho khi soạn  tác phẩm này. Vì vậy đây là cuốn sách dày nhất  cho đến hết thời kỳ phong  kiến mang nội dung đấu tranh trên lĩnh vực tư  tưởng của Nho giáo với  Công giáo. Chỉ riêng điều này thôi đã cho thấy  tính quyết liệt của cuộc  đấu tranh. 
Khi  nhà Nguyễn từng  bước đầu hàng thực dân Pháp thì trong nước nổi lên  phong trào Văn thân  đánh Pháp. Khẩu hiệu của phong trào là: Bình Tây,  sát tả” với lời hịch: 
Than  ôi, đạo dối Giêsu đã xâm nhập vào nước ta, lời cầu nguyện của họ chỉ  tin vào chúa Trời và Thánh Thần. 
Giáo lý của họ dạy  rằng trên trái đất này chẳng có vua, chẳng có cha mẹ. 
Lập  luận của họ vừa vô lý vừa ngược đời: 
Tư cách của họ đầy rẫy  sự kiêu ngạo. Họ cướp đoạt đất đai phì nhiêu để xây dựng nhà thờ cho  đạo dối. 
Về mặt đạo lý họ tìm cách làm băng hoại nước ta để  biến nước ta thành Công giáo. Họ làm nhục đạo lý Khổng Mạnh. 
Dung hợp 
Nếu  như xung đột chỉ diễn ra trên bình diện tư tưởng thì dung hợp giữa Nho  giáo và Công giáo diễn ra đa diện. 
Về  bình diện tư  tưởng: Bên trên là việc trình bày về xung đột, tuy nhiên  các giáo sĩ  Công giáo không thể không thừa nhận cái hay cái tốt của Nho  giáo mặc dù  còn hạn hẹp và chỉ dưới góc độ tìm hiểu. Alexandre de Rhodes  có những  nhận xét sau về Khổng Tử: “Thực ra Khổng Tử nhà hiền triết  này, trong  những sách ông để lại, có nhiều giáo huấn về thuần phong mỹ  tục: như  khi ông nói, trước hết hãy sửa mình mà muốn thế thì xét mình  mỗi ngày  ba lần để sửa điều lầm lỗi. Sau đó mới đem tâm trí và chuyên  cần xếp  đặt, điều khiển gia đình. Và sau khi đã cẩn thận chu toàn chức  vụ đầu  tiên này chứ không trước khi đó, thì bấy giờ mới lo dìu dắt và  cai trị  quốc gia. 
Ông  còn luận về nhiều điều liên hệ tới pháp lý  dân chính, về xét xử các vụ  kiện và thi hành công lý, do đó các tiến sĩ  Đàng Ngoài nghiên cứu kinh  sách của ông một cách chuyên cần như chúng  ta khảo sát hiến pháp hay bộ  luật. Ông còn trình bày và phân giải những  châm ngôn về chính trị và  luật pháp tự nhiên. Vì thế ông không nói  trái với những nguyên lí của  Kitô giáo và cũng không nói những gì phải  bác bỏ hay bị kẻ tin theo lên  án”(21). 
F.Buzômi,  giáo sĩ  người Italia xuất hiện ở Đàng Trong ngày 18-1-1615 nhận xét về  vai trò  của Nho giáo như sau: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt  Nam đã  có một tổ chức rất cao, người dân Việt Nam có những đức tính,  phong tục  rất đáng khâm phục nó đã giúp rất nhiều vào công cuộc truyền   giáo”(22). 
Thuyết  “tam phụ” hay thần học “tam phụ”: Thiên  chúa là Cha do Alexandre de  Rhodes khởi xướng là sự ảnh hưởng của tư  tưởng tam cương: quân thần, phụ  tử, phu phụ của Nho giáo. Trong tam  cương - ba giềng mối trong xã hội -  Khổng Tử đã đề cập đến hai cha: Phụ  tử - con đối với cha mẹ, quân thần -  vua là cha mẹ dân để rồi A.Rhodes  thêm một phụ/cha, với quan niệm Thiên  chúa là Thượng phụ. 
Trong   phép giảng tám ngày A.Rhodes viết: “Bây giờ ta phải có ba đấng bề trên   gọi là ba cha, ta phải thờ, ở đấng nào cho nên đấng ấy. Đấng dưới là  cha  mẹ sinh thân xác cho ta; đấng giữa là vua chúa trị nước; đấng trên  tức  đức chúa trời đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba đấng này ta  mới  được sống, được ở. Vì chúng ta có cha mẹ, thì mới được thân xác  thịt này  sinh ra mà chớ… Vua Chúa cũng gọi là cha cả và nước cùng các  dân. Chẳng  có vua chúa, thì nước ở an lành chẳng được… Ắt thật thượng  phụ là cha  cả, chúa cả trên hết mọi sự, có thưởng có phạt trọng”(23). 
Tư   tưởng tam cương, ngũ thường còn được Công giáo vận dụng để hướng dẫn   tín đồ sống đạo theo tín lý trong đó có việc hôn nhân. Công giáo đề cao   hôn nhân một vợ một chồng gọi là “phép nhất phu, nhất phụ”. Thư của  giám  mục Hermosilla (Liêm) coi phép nhất phu nhất phụ thuộc về “cương”  phu,  phụ trong tam cương. Thư viết: “Các quân tử cứ lẽ tự nhiên đã suy  đến sự  ấy đã kể phép nhất phu, nhất phụ trong ba giềng mối can hệ nhất  trong  thiên hạ quen gọi là tam cương… Ví bằng người ta cẩn thận giữ cho  phải  mlễ trong việc nhất phu, nhất phụ thì các việc khác liền được  an”(24). 
Công  giáo dù tạo ra chữ quốc ngữ nhưng một thời  gian dài cho đến tận đầu thế  kỷ XX kinh, bổn, giáo lý… lại soạn, in  bằng Hán - Nôm mà dân gian quen  gọi là chữ Nho. Tín đồ được xem là có  hiểu biết trong xứ, họ đạo, làng  Công giáo cho đến trước cách mạng  Tháng Tám năm 1945 là những người biết  “chữ Nho”, những người “Nho  học”. Họ học chữ “Thánh hiền” bởi các “thầy  đồ” ở làng lương. Họ được  phép mang đồ lễ tặng thầày đồ, chỉ không được  thờ cúng, bái lạy  KhổngTử. Vì sợ tín đồ học “chữ Nho” với lương dân có  thể bị chế nhạo,  bị lôi kéo, nên với các xứ, họ đạo, làng Công giáo nào  có “thầy đồ” là  người Công giáo thì giáo dân phải học họ không được học  thầy đồ là  lương dân. Một trong những họ (hội đoàn) ra đời sớm là hội  Nho gia tập  hợp những thầy đồ là tín đồ Công giáo(25). 
Chính  vì vậy mà Công giáo đã để lại cho dân tộc một di sản Hán - Nôm quen gọi  là Nôm đạo khá đồ sộ. 
Tư  tưởng Nho giáo thể hiện ở một số công trình  kiến trúc Công giáo và cả  trong những câu đối ở nhà thờ Công giáo. Nhà  thờ chính toà Phát Diệm  (Kim Sơn - Ninh Bình) mặt bằng kiến trúc theo  hướng Bắc - Nam. Giữa ao  hồ dựng tượng chúa Giêsu làm vua nhìn về hướng  Nam, hai tay giang rộng.  Hướng Nam là hướng của Thánh nhân theo quan  niệm: Thánh nhân nam diện  nhi thính thiên hạ. Thánh nhân nhìn về hướng  nam nghe thiên hạ giãi bày.  Nhà thờ đá trong khu quần thể nhà thờ chính  toà tạc biểu tượng lưỡng  nghi/âm dương phía mặt sau hình sư tử và  phượng hoàng. Chấn song phương  đình là hình thân trúc. Trúc là biểu  hiện tính ngay thẳng của người quân  tử. 
Nhà thờ xứ An Vân  (Huế) có đôi câu đối. 
Đạo sở cộng do chính tại càn khôn sắc bàng bạc 
Nhân  viết dư tri, cái vu tạo hóa tố uyên nguyên. 
Dịch: 
Đạo là con đường ai  cũng phải đi, chính vì khắp càn khôn dáng của Thiên chúa luôn bàng bạc. 
Người ta nói rằng: tôi  biết (có Thiên Chúa) thấy công trình tạo hóa, ta phải truy tầm nguồn  gốc.  
“Đạo  sở cộng do” là lấy lời của Khổng Tử trong câu: Đạo lộ dã, nhân sở cộng  do. Hà nhân xuất bất do hộ. 
Về  phía Nho giáo, đại  biểu của nó là tầng lớp Nho sĩ trên thực tế ít thấy  có sự dung hợp với  Công giáo. Điều này thật dễ hiểu bởi tư tưởng trung  quân cũng có nghĩa  là trung thành với hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà vua sử  dụng làm hệ tư  tưởng chính thống. Khi nhà Nguyễn bãi bỏ lệnh cấm đạo  thay đổi cách  nhìn với Công giáo thì triều đại này dần dần mất vai trò  trên chính  vương quốc của họ. Nho giáo theo đó cũng tàn lụi dần để rồi  chỉ còn là  lớp trầm tích trong văn hóa Việt. 
Tuy  nhiên chính vào  lúc Nho giáo tàn lụi người ta lại thấy lóe sáng tư  tưởng của các nhà  Nho cuối mùa của phong trào Đông Kinh nghĩa thục hồi  đầu thế kỷ XX đề  cao chữ quốc ngữ. Coi đây là một trong sáu đường mở  mang dân trí. Việc  các nhà Nho bỏ chữ thánh hiền dùng chữ quốc ngữ do  các giáo sĩ Công  giáo tạo ra rõ ràng là một “đột phá khẩu” về canh tân. 
Con   đường đầu tiên được đặt ra là: Dùng văn tự nước nhà “Phàm người trong   nước đi học nên lấy chữ quốc ngữ làm phương tiện đầu tiên, để trong  thời  gian vài tháng đàn bà, trẻ con cũng đều biết chữ; và người ta có  thể  dùng quốc ngữ để ghi việc đời xưa, chép việc đời nay, và thư từ thì  có  thể chuốt lời và đạt ý. Đó thực là bước đầu tiên trong việc mở mang  trí  khôn vậy”(26).  viết về Nho giáo và Khổng  Tử có phần kĩ hơn: “Giáo phái thứ nhất và thời danh hơn cả là   Tự Đức. Đạo biện ra  đời có thể trước năm 1862. Trên cơ sở luận về đạo  để rồi Tự Đức phê  phán tín lý Công giáo: “Họ bảo Thiên Chúa tức là  Thượng đế, Thượng đế  là chúa tể của trời, tức là sáng tạo ra trời đất,  vạn vật. Họ lại nói  Thiên chúa không phải là trời, không phải là đất,  không phải là lý,  không phải là đạo, không phải là khí, không phải là  tính, không phải là  người, không phải là vật, không phải là quỉ, không  phải là thần, đó là  đầu mối của vạn vật, mà chính mình không bắt đầu từ  đâu cả… đem so với  Lão Tử khi nói “Vô danh là bắt đầu của trời vật, Đạo  sinh ra một, một  sinh ra hai” mới thấy thuyết của Gia Tô lại càng xuyên  tạc thô sơ, họ  chỉ biết mượn Thiên Chúa để che giấu cái dấu tích Gia Tô,  và để làm văn  hoa cho sự lầm lỗi vì đã thờ phụng xằng mà không kể gì  đến gốc tích  nữa”(17). Ở một đoạn khác Tự Đức phê phán: “Họ lại muốn  người ta không  được lễ tổ tiên, cha mẹ, thánh hiền, bảo rằng Thiên Chúa  là gốc của  nhân, vật, thần thánh, thì chỉ chuyên kính lễ Thiên chúa. Như  thế họ  lại càng sai lầm lớn lắm”(18).      
Chú thích: 
1. Sách  thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài, In tại Kẻ Sở 1908,  tr.602-603. 
2. Alexandre de Rhodes: Phép giảng tám ngày.  Tủ sách Đại Kết. 1993 tr.XXIII. 
3. Phép giảng tám ngày.  Sđd, tr.112-113. 
4. Alexandre de Rhodes: Lịch sử Vương quốc Đàng  Ngoài. Tủ sách Đại Kết 1994, tr.39-40. 
5.  Linh mục Nguyễn Hưng: Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo, Lưu hành  nội bộ, 2000, tr.187. 
6 Sơ thảo thư mục Hán Nôm Công giáo,  đd, tr.81. 
7.  Đây là nhận định của tác giả, song thực chất  thì ngay từ thời Lý đã dựa  theo Nho giáo để tổ chức Nhà nước và sang  thời Trần thì bộc lộ rõ ràng  hơn việc sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng  trị nước (BT)  
8. Khâm định Việt sử thông giám Cương mục.  Tập II, Nxb. Giáo dục, H. 1998, tr.300-301. 
9. Khâm  định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 140. 
10.  Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, Sđd, tr 627. 
11.  Launay A. Histoire de la Mission de Cochinchine. Vol III, tr.117  Dẫn theo Trương Bá Cần: Công giáo Đàng Ngoài thời Giám mục Pigneau  (1771-1799). Tp. Hồ Chí Minh 1992. 
12. Louvet E.L.  Lacochinchine religieuse, tome I, tr.517. Dẫn theo Nguyễn Quang  Hưng: Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883), Nxb.  Tôn giáo, 2007, tr.159. 
13. Đại  Nam thực lục chính biên. T3, Đệ nhất  kỉ, Nxb. KHXH, H. 1963, tr.168. 
14. Đại Nam thực  lục chính biên, T4 (Tái bản lần 2), Nxb. Giáo dục, H. 2004, tr.235. 
15.  Đại Nam thực lục chính biên, T11, Nxb. KHXH, H. 1964, tr.236. 
16.  Đại Nam thực lục chính biên, T21, Nxb. KHXH, H. 1969, tr.100. 
17.  Tự Đức: Đạo biện trong Tự Đức ngự chế văn tập. Tư liệu  Viện Triết học, tr.44. 
18. Tự Đức: Đạo biện, Sđd, tr.46. 
19.  Đại Nam thực lục chính biên, T17, Nxb. KHXH, H. 1966, tr.243. 
20.  Phạm Ngộ Hiên, Nguyễn Hoà Đường… Tây Dương Gia Tô bí lục, Nxb.  KHXH, H. 1981, tr.111-25. 
21. Lịch sử Vương quốc Đàng  Ngoài, Sđd, tr.39-40. 
22. Dẫn theo Nguyễn Hồng: Lịch  sử truyền giáo ở Việt Nam. T1 Hiện  Tại, Sài Gòn 1959, tr.57. 
23. Phép giảng tám ngày. Sđd,  tr.17-24. 
24. Những thư chọn trong các thư chung các đấng  Vicariô Apôstôlicô và Vicariô Prôvinciale về dòng ông thánh Du  Mingô đã làm tự năm 1849, Quyển thứ 2. In tại Kẻ Sặt 1903, tr.63. 
25.  Xem: Sách thuật lại các thư chung địa phận Tây Đàng Ngoài In tại  Kẻ Sở, 1908, tr.209-210; 228-229. 
26. Đặng Thai Mai: Văn  thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX Nxb. Văn học, H. 1974,  tr.216./. 
Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.196-211 *Tác giả Nguyễn Hồng Dương là PGS.TS, Viện  trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo (Viện KHXH Việt Nam)   
	
	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
 
	
    | 
 |