| 
 |  
 
 Hôn    Nhân và Bí Tích Hôn nhân là hình thức chung sống    suốt đời giữa một người nam và một người nữ trên căn    bản tình yêu. Cả hai chấp nhận hình thức này, để dễ    dàng cho đi và nhận lãnh tình yêu, giúp nhau vui sống trong    mọi hoàn cảnh cuộc đời. Trong hôn nhân, cả hai cùng cộng    tác tích cực vào sứ mạng sáng tạo của Tạo Hóa trong việc    sinh sản con cái là kết quả của tình yêu hai người, đồng    thời giúp nhau chu toàn trách nhiệm quốc gia và Giáo Hội (GH)    trao phó trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái.     
Có    thể nói, hôn nhân là thể chế cổ kính nhất trong nền văn    hóa nhân loại.     
Xưa     như trái đất nhưng vẫn mới như mặt trời. Mới mỗi ngày.    Hôn nhân không phải là "sản phẩm" của riêng Kitô giáo mà    là di sản của toàn thể nhân loại! Trong cuốn Giáo Lý Công    Giáo (GLCG) ban hành ngày 11. 10. 1992, GH đã khẳng định: Hôn    nhân nằm ngay trong bản tính tự nhiên của con người (1603).      
Kinh    Thánh cũng bắt đầu bằng việc sáng tạo một người nam    và một người nữ (St 1) và kết thúc bằng một tiệc cưới    Chiên Con (Kh 19, 7. 9). Như thế có thể nói, từ trang đầu    tới trang cuối, Kinh Thánh vừa đề cập tới hôn nhân      
và     con người vừa đề cập tới mầu nhiệm tình yêu và hạnh    phúc của loài người.     
1.    Hôn nhân thời Cựu ước     
Những    trang đầu Kinh Thánh đã ghi lại 2 bài tường thuật về sự    sáng tạo con người (St 1, 1 - 2, 4 và 2, 4b - 3, 24). Tuy bài thứ    hai (2, 4b - 3, 24) cổ kính hơn bài thứ nhất (1, 1 - 2, 4) nhưng    cả hai đều tường thuật một chi tiết giống nhau: Ban đầu    Thiên Chúa đã sáng tạo loài người không gồm hai người    nam hoặc hai người nữ, mà gồm một người nam và một người    nữ. Ðể làm gì? Thưa, để họ chung sống với nhau mà cộng    tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo liên tục của Ngài    (St 1, 27t; 2, 18-24; xx. thêm: Tb 8, 5-9). Như thế, hôn nhân đã    nằm ngay trong ý định sáng tạo nguyên sơ của Thiên Chúa.      
Ðối    với người Do Thái, hôn nhân không phải là chuyện riêng tư    của hai người nhưng là việc chung của cả giòng họ. Vì    thế, quyền xếp đặt việc hôn nhân thường dành cho gia trưởng    (Xh 22, 15t; Ðnl 7, 3). Cha chàng rể chỉ cần nói chuyện với    cha nàng dâu (St 24, 2-61; 34, 1-24; 38, 6; Tl 14, 2t), nhưng cũng    có những trường hợp chàng rể đã tự quyết định lấy    (St 26, 34t; 28, 8t; 29, 14-30; 38, 1-5; Hc 26, 19t) hoặc nàng dâu    đã dành quyền quyết định tối hậu trong việc này (St 24,    5. 8. 58). Sau khi nhà trai nộp tiền cheo (mohar), nàng dâu mới    chính thức trở thành người vợ trước pháp luật. Số tiền    này không thể coi là giá cả mua bán nàng dâu, nhưng đúng    ra là bảo chứng trước pháp luật khi thành hôn, đồng thời    có thể coi là quỹ "bảo hiểm" cho nàng, nếu không may về    sau nàng bị góa chồng quá sớm. Ðám cưới của người Do    Thái xưa được cử hành suốt 7 hoặc 14 ngày liền (xx. St    29, 27; Tl 14, 12; Tb 8, 18t) với con số thực khách rất đông    (St 29, 22).     
Dù    sách Tobia có nhắc tới một thứ hôn ước chính thức, được    ghi trên giấy     
trắng     mực đen (7, 14), nhưng trong Cựu ước chưa thấy có một nghi    thức rõ     
ràng     nào để chứng hôn. Hôn nhân thời đó chưa thể coi là Bí    tích được,     
dù     Cựu ước cũng đã công nhận tính cách thánh thiện của hôn    nhân. Hôn ước thời đó chỉ có tính cách dân luật, nhằm    bảo vệ giềng mối gia đình.     
2.    Hôn nhân thời Giáo Hội sơ khai     
Ngay    từ thời GH sơ khai, các tín hữu đã xác tín rằng: Hôn nhân    là việc thánh thiện, cần phải được cử hành trước mặt    Chúa và GH. Trong GH cũng bắt đầu manh nha những hình thức    chứng hôn tại địa phương. GH yêu cầu các tín hữu khi thành    hôn, "xin thông báo cho Giám Mục biết", để "làm theo thánh    ý Chúa" và "làm vinh danh Ngài" (Ignatios, Epistula ad Smyrnaeos 8,    1 và Epistula ad Polycarpum 5, 2; xem thêm: Tertullian, Ad ux. 2, 9;    Ambrosius, Ep. 19, 7). Các Giáo Phụ thường hiểu việc Chúa Giêsu    đến dự tiệc cưới tại thành Cana như là việc Ngài công    khai "hợp thức hóa" hôn nhân loài người. Trong GH Tây Phương    hồi thế kỷ thứ 5, đôi tân hôn có thể mời Giám Mục tới    thẳng phòng tiệc cưới, để chúc lành cho hôn ước của    mình. Còn bên GH Ðông Phương, việc này đã được thực hành    sau thời Hoàng Ðế Constantinô, nghiã là sớm hơn một thế    kỷ. Sau này, đối với những quốc gia tại Ðông Phương đã    nhận Kitô giáo làm quốc giáo, nghi thức Linh mục đội triều    thiên cho đôi tân hôn trở thành không thể thiếu trong việc    kết hôn. Ai kết hôn không có nghi thức này, hôn phối của    họ sẽ bị coi là bất thành phép trước mặt GH.     
Tới    thế kỷ thứ 8, GH Tây Phương còn thực hành thêm việc khảo    hạch trước khi cử hành Bí tích Hôn Phối cho đôi tân hôn.    Vào thế kỷ 15, sau khi hai người công bố việc ưng thuận    kết hôn, Linh mục còn chính thức xác nhận hôn ước đó    bằng việc đọc thêm công thức: "Ego coniungo vos in matri- monium.    In nomine Patris..." (Tôi kết hợp anh chị trong hôn nhân.      
Nhân     danh Cha...) (Martène R II 367t: Ordo VII matr.). Sau này, nghi thức      
đó     còn được công nhận và in lại trong sách nghi lễ Roma (Rituale    Romanum).     
Nhưng    khoa Thần Học và Giáo Luật thời thế kỷ thứ 11 chủ trương    rằng: Ðể hôn phối thành phép, chỉ cần sự ưng thuận (solus    consensus) kết hôn của hai người là đủ. Hậu quả của học    thuyết này là việc coi thường các nghi thức kết hôn, bên    đời cũng như bên đạo. Ðể ngăn ngừa nguy hiểm đó, Công    đồng Trento đã ra sắc lệnh "Tametsi" ngày 11. 11. 1563 nhằm    canh tân hôn phối, bằng các biện pháp cụ thể sau đây: (1)    Rao hôn phối 3 lần liên tiếp trong các ngày lễ lớn, (2) hôn    phối phải cử hành theo nghi thức cố định và công khai trước    mặt một Linh mục và 2, 3 nhân chứng. Những hôn phối nào    không cử hành theo thể thức này, đều bị coi là bất hợp    pháp và bất thành phép (DZ 1814-1816). Nghi thức hôn phối lúc    đó đã gồm 3 yếu tố căn bản như ngày nay:     
(1)    Hai người công bố sự ưng thuận kết hôn với nhau trước    mặt vị đại diện     
GH     và các nhân chứng.     
(2)     Vị đại diện xác nhận sự ưng thuận của hai người.     
(3)     Vị đại diện chúc lành cho hôn ước đó.     
3.    Hôn nhân là một công ích     
Có    người vẫn thắc mắc: Hôn nhân là "chuyện riêng tư" của    hai người, tại     
sao     GH phải "xía" vô? Thưa, hôn nhân không phải là chuyện riêng    tư giữa loài người, mà là chuyện liên quan đến cả Thiên    Chúa. Hôn nhân nằm trong chương trình sáng tạo của Thiên    Chúa ngay từ khi tạo thành vũ trụ. Như thế, GH lưu tâm tới    hôn nhân như là lưu tâm tới chương trình của Thiên Chúa.    Hôn nhân cũng không phải là chuyện riêng tư giữa hai người,    mà là chuyện liên quan đến nhiều người: cả giòng họ,    cả xã hội và GH. Hôn nhân có liên quan tới nhiều người,    vì hôn nhân không phải chỉ liên quan tới hạnh phúc của    hai người, mà còn liên quan tới hạnh phúc của cả xã hội    và GH. Công đồng Vatican II đã minh định: "Hạnh phúc của    một người, cũng như hạnh phúc của xã hội và GH, có liên    quan mật thiết với hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân và    đời sống gia đình" (Gaudium et Spes 47, 2). Như thế, GH chăm    sóc hạnh phúc hôn nhân như là chăm sóc hạnh phúc xã hội    cũng như hạnh phúc của chính GH.     
Có    lẽ chính trong ý nghiã đó, mà GLCG đã xếp Bí tích Hôn Phối    (1601- 1666) vào loại "những Bí tích phục vụ đời sống chung"    (les sacrements du service de la communion) cùng một loại với Bí    tích Truyền Chức (1536-1600)! Tóm lại, hôn nhân là một công    ích, không phải chỉ có ích cho hai người và vì thế cũng    không thể "dàn xếp âm thầm" giữa hai người yêu nhau.      
4.    Hôn nhân là một mầu nhiệm     
Hầu    hết các dân tộc đều tin rằng: Thần Thánh "nhúng tay" vào    việc hôn nhân của loài người hoặc coi hôn nhân là việc    thiên duyên tiền định. Người Việt xưa cũng tin, vợ chồng    nên duyên được là nhờ "ông Tơ bà Nguyệt". Niềm tin đó    dựa trên điển tích "Nguyệt hạ lão nhân" (ông già ngồi    dưới bóng trăng, thường được gọi là ông Tơ, vị tiên    chuyên lo xe duyên cho loài người). Ðiển tích ấy kể rằng:    Vi Cố, vào một đêm đi chơi, chàng gặp một cụ già ngồi    dưới bóng trăng trong, trong tay cụ có một cuốn sổ và một    bó chỉ hồng. Vi Cố gạn hỏi, cụ mới tiết lộ: "Ta là    Nguyệt Lão, cuốn sổ này để ghi tên những cặp trai gái    sẽ lấy nhau, còn chỉ hồng này dùng để cột chân họ lại,    để nên duyên vợ chồng." Nghe thế, Vi Cố tò mò cũng muốn    biết xem sau này mình sẽ lấy ai. Nguyệt Lão chiều lòng cho    biết, sau này chàng sẽ lấy cô nàng ăn xin trước chợ. Vi    Cố tin lời, sợ mất danh giá về sau. Ðể trừ hậu họa,    một ngày kia chàng xách dao ra chợ, "hỏi thăm sức khoẻ" cô    nàng. Vừa tới nơi, chàng chém vội một cú. Thấy máu chảy    đầm đìa, hoảng sợ chàng chạy trốn. May phước, nhờ thế    nàng thoát nạn. Sau này, Vi Cố cưới được một tiểu thư,    con của vị quan trong miền, chàng yên trí. Nhưng khi thấy vết    sẹo trên đầu vợ, chàng hỏi ra mới biết tiểu thư ngày    nay chính là cô nàng ăn xin ngày trước. Nàng đã được quan    ông trong miền nhận về làm con nuôi.     
Như    thế, hôn nhân không phải là việc phàm tục giữa hai người    yêu nhau,     
nhưng     là việc linh thiêng giữa Thần Linh và loài người. Ngài yêu    họ nên     
"mai     mối" cho họ và dàn xếp cho họ tìm được hạnh phúc bên    nhau.     
Trong    Kinh Thánh, bài tường thuật thứ 2 về sự sáng tạo cũng    cho thấy, Thiên Chúa đã can thiệp trực tiếp vào việc này    bằng cách cho Adam ngủ say, rồi lấy xương sườn của chàng    mà dựng nên Evà (St 2, 21). Chữ "ngủ say" trong nguyên ngữ    Do Thái "tardemáh" có ý diễn tả "mầu nhiệm không hiểu nổi"    này đối với nhân loại.     
Thư    Thánh Phaolô cũng coi sự kết hợp giữa người nam và người    nữ như một "mầu nhiệm" [mystérion] (Ep 5, 32) vì hôn nhân    của loài người là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa    Kitô và GH (Ep 5, 23-27. 29-32).     
H.    Rahner còn gọi hôn nhân là "mầu nhiệm triệt cùng" (mysterium    radicale) của nhiệm thể Chúa Kitô, vì khi sinh ra bởi một    cuộc hôn nhân nào đó, con người cũng có "họ hàng máu mủ"    với Thiên Chúa qua Ðức Kitô, là Ðấng đã xuống thế làm    người và ở giữa loài người.     
5.    Hôn nhân là một Bí tích     
Trong    các nền văn hóa khác nhau, hôn nhân luôn được coi là việc    thánh thiện. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô    dâu chú rể thường xin Thần Linh của mình chứng giám cho    tình yêu và phù hộ cho cuộc sống chung giữa hai người qua    một nghi lễ công khai và long trọng. Trong hầu hết các tôn    giáo, hôn nhân cũng được coi là hình thức sống chung hợp    với ý Thượng Ðế. Trong Cựu ước, giao ước giữa Thiên    Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân    giữa hai người (Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23). Còn trong    Tân ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa    Chúa Kitô và GH (Ep 5, 22-33). Chúa Kitô được ví như chàng    rể của giao ước mới (Mc 2, 19). Còn GH được ví như nàng    dâu, đã được Chúa Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống    (Ep 5, 25). Chính Chúa Giêsu cũng minh định công khai: Hôn nhân    hợp với thánh ý Thiên Chúa (Mt 19, 6).     
Ðối    với GH, hôn nhân không phải chỉ là một khế ước giữa    người với người mà còn là một Bí tích (Sakrament/ sacrement)    giữa Thiên Chúa và loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu cho rằng:    "Hôn nhân là Bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong    hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa,    mà là hình ảnh của Chúa trên trời."     
Nhưng,    Bí tích là gì? - Thưa, Bí tích là dấu thánh (heiliges Zeichen)    bề ngoài do Chúa Giêsu đã lập, để thông truyền ơn phúc    bên trong.     
Dấu    thánh bề ngoài trong Bí tích Hôn Phối là: (1) sự ưng thuận    thành hôn của hai người và (2) việc công khai hóa sự ưng    thuận đó trước mặt đại diện GH và các chứng nhân. Bí    tích này do Chúa Giêsu đã lập, khi Ngài thiết lập Giao ước    mới như là dấu chỉ muôn đời của ân sủng. Ngoài ra, tự    bản chất không một Bí tích nào có liên hệ với thực tại    tự nhiên cho bằng Bí tích Hôn Phối.     
Có    thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay    trong vườn địa     
đàng,     giữa người nam và người nữ đầu tiên. Nhưng Chúa Giêsu    mới nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích.     
Ngay    trong trật tự sáng tạo, Thiên Chúa đã sáng tạo người nam    và người nữ     
theo     hình ảnh Ngài (St 1, 27), mà Ngài là tình yêu (1 Ga 4, 8. 16).    Cho nên,     
loài     người được sáng tạo theo mẫu mực của tình yêu. Ngài    đã chúc lành cho họ và cầu mong họ sinh sản thêm nhiều    con cái, để tiếp tục cộng tác trực tiếp trong việc sáng    tạo mà Ngài đã khởi đầu (St 1, 28). Chính Thiên Chúa đã    kết luận: "Ðó là việc rất tốt" (St 1, 31).     
Còn    đối với Chúa Giêsu, ngay khi bắt đầu đời sống công khai,    Ngài đã có mặtb trong một tiệc cưới tại Cana. Ngài làm    dấu lạ đầu tiên biến nước thành rượu để giúp hai họ    nối tiếp cuộc vui (Ga 2, 1-11). GH luôn hiểu sự hiện diện    này như là một chứng thực của Chúa Kitô đối với giá    trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường    xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân (GLCG, 1613).      
Dù    sống độc thân, nhưng Chúa Giêsu cũng dạy rằng: Hôn nhân    là một cuộc sống chung giữa người nam và người nữ, được    Thiên Chúa thiết lập ngay từ khi tạo dựng vũ trụ. Ngài    còn tranh đấu quyết liệt, để trả lại cho hôn nhân ý nghiã    nguyên thủy mà Thiên Chúa đã minh định từ đầu, đó là    sự hợp nhất bất khả phân ly giữa người nam và người    nữ (Mc 10, 6-9; Mt 19, 4tt).     
Ngay    từ thời GH sơ khai, Thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu là    hãy cưới nhau "trong Chúa" (1 Cr 7, 39).     
Giáo    lý Bí tích của hôn phối được xây dựng trên nền tảng    Kinh Thánh, nhưng phần cô đọng nhất phải kể đến đoạn    5, 22-33 thuộc thư gởi tín hữu Ephêsô. Trong phần này, tác    giả đã so sánh sự kết hợp giữa vợ chồng với sự kết    hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Như thế, sự kết hợp    trong đời sống hôn nhân là hình ảnh của sự kết hợp với    Thiên Chúa, và sự hiến thân toàn vẹn cũng được coi là    mục tiêu và nền tảng của đời sống hôn nhân. Sự hy sinh    của vợ chồng dành cho nhau là hình ảnh sự hy sinh của Chúa    dành cho GH. Tình yêu của vợ chồng dành cho nhau cũng là hình    ảnh tình yêu của Chúa dành cho GH. Rõ ràng nhất là khi tác    giả xác tín: "Mầu nhiệm (Mysterium, Sacramentum) đó thật vĩ    đại. Tôi có ý ám chỉ Chúa Kitô và GH Ngài" (5, 32).      
Giáo    huấn này được hình thành dần dần trong những thế kỷ    11 - 13, rồi     
được     phán quyết bởi nhiều Công đồng và tái khẳng định qua    nhiều thời đại Giáo hoàng khác nhau. Công đồng Lateran II    (1139) đã xếp Bí tích Hôn Phối chung với các Bí tích Thánh    Thể, Thánh Tẩy và Truyền Chức (D 367). Ðến thời Công nghị    Verona (1184), hôn nhân chính thức được gọi là Bí tích (D    406, 424, 465, 702). Rồi trong sắc lệnh "Exultate Deo" (22. 11. 1439),     Công đồng Firenze đã gọi Bí tích này là Bí tích thứ bẩy    của GH. (DZ 1327; NR 730). Công đồng Trento, trong khóa họp ngày    11. 11. 1563 xác tín thêm rằng: Chính Chúa Giêsu đã thiết lập    và hoàn thành Bí tích này (DZ 1799; NR 733). Sau này, trong các    thông điệp "Arcanum divinae sapientiae" (10. 02. 1880) của ÐGH Lêo    XII và "Casti connubii" (31. 12. 1930) của ÐGH Piô XI, giáo huấn    này còn được tái khẳng định thêm một lần nữa (DZ 3142;    NR 747; DZ 3700; NR 751). Công đồng Vatincan II đi xa hơn, khi xác    quyết: "Trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và    giáo dục con cái, vợ chồng sẽ giúp nhau nên thánh (!) (Lumen    Gentium, số 11). Như thế, hôn nhân vừa là một Bí tích vừa    là một ơn gọi để nên thánh.     
"Hôn    nhân là một Bí tích" thường được hiểu theo 2 nghiã sau    đây: (1) Khi     
hai     người yêu nhau muốn được Thiên Chúa chúc phúc cho họ, thì    Bí tích     
hai     người ban cho nhau, cũng sẽ đem lại cho họ ân sủng và phúc    lành của     
Chúa.     (2) Ðối với người Công Giáo, hôn nhân còn là môi trường    giúp cho họ cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành cho    họ một cách cụ thể qua tình yêu của người yêu. Nói cách    khác, trong tình yêu hôn nhân họ cảm nghiệm được tình yêu    Thiên Chúa dành cho họ một cách cụ thể: Họ dễ dàng xác    tín rằng Thiên Chúa yêu thương họ tha thiết trong vòng tay    của người yêu. Tình yêu trong hôn nhân như thế chính là    hình ảnh tình yêu của Chúa dành cho con người. Công đồng    Vatican II cũng xác quyết: "Tình yêu chân chính của hai người    được thông phần vào tình yêu của Thiên Chúa" (Gaudium et    Spes, số 48, 2).     
Bí    tích đó không phải chỉ được cử hành một lần trong Phụng    vụ, mà cần phải được cử hành mỗi ngày một cách cụ    thể trong đời sống thường ngày bằng cách tận hiến cho    Chúa và hy sinh cho nhau. Như thế, Bí tích Hôn Phối là một    phần thuộc thực tại cứu độ bao la của Thiên Chúa dành    cho loài người qua sự tử nạn và phục sinh của Ðức Kitô,    Con yêu dấu của Ngài.     
Nên    biết, hôn phối chỉ có giá trị là Bí tích đối với hai    người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (Rửa Tội) theo nghi    thức Kitô giáo (mà không nhất thiết phải là nghi thức Công    giáo) trước khi lãnh nhận Bí tích Hôn phối. Nếu     
một     trong hai người, cho tới khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối vẫn    chưa lãnh     
nhận     Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối họ lãnh nhận chỉ là hôn phối    tự nhiên     
(Naturehe)     - (xx. LThK VIII, cột 1206). Vì trong Bí tích Hôn Phối, khi đã      
thành     phép thì cũng thành phép cho cả hai người, mà không có chuyện    một người thành phép, một người không. Cũng thế, khi đã    có giá trị Bí tích thì cũng có giá trị cho cả hai người.    Không có chuyện chỉ giá trị với người này mà không có    giá trị với người kia. Bí tích Thánh Tẩy chính là điều    kiện căn bản để lãnh nhận các Bí tích khác được thành    phép.     
Tuy    nhiên, nếu sau này người thứ hai xin lãnh nhận Bí tích Thánh    Tẩy, thì Hôn Phối mà hai người đã lãnh nhận trước sẽ    đương nhiên trở thành Hôn Phối có Bí tích. Ðiều này cũng    có giá trị đối với các hôn phối tự nhiên khác, khi hai    người đều lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy sau khi cưới.      
Ðối    với GH Công Giáo và Chính Thống, hôn nhân là một Bí tích.    Trái lại,     
đối     với GH Anh giáo và GH Tin Lành, hôn nhân không phải là một    Bí tích. Martin Luther coi hôn nhân chỉ là "việc đời" mà thôi    (nguyên văn: ein     
aeusserlich-weltlich     Ding). Các nhà cải cách khác như Melanchthon, Zwingli, Calvin, Brenz,    Bucer, Bugenhagen cũng cùng một lập trường với Luther.      
6.    Nghi thức kết hôn trong Giáo Hội     
Những    nghi thức kết hôn trong GH từ trước tới nay thực ra đều    là những hình thức đã có sẵn trong dân luật, trong các nền    văn hóa cổ xưa và trong các tôn giáo khác nhau. Hình thức    nào thích hợp đều được GH "rửa tội" lại và biến thành    nghi thức Phụng vụ của mình. Ðó là một tiến trình lâu    dài. Mãi tới thời Trung cổ, GH mới có những nghi thức nhất    định và công khai trong việc này.     
Hình    thức chính thức để cử hành Hôn phối (Forma celebrationis    matrimonii: Formpflicht) cách thành phép và hợp pháp trong GH Công    giáo là hai người phải kết hôn trước mặt Giám mục hoặc    Cha sở địa phương, hoặc một Linh mục, một Phó tế nào    đó đã được ủy nhiệm (hoặc một giáo dân được ủy    nhiệm trong trường hợp thiếu những vị nói trên, xin xem:    CIC 1112) cùng với hai nhân chứng.     
GH    công khai hóa Bí tích Hôn Phối như trên, vì những lý do sau    đây:     
a)    Bí tích Hôn Phối là một nghi thức Phụng vụ của GH.      
b)    Sau khi lãnh nhận Bí tích Hôn Phối, hai người đều có bổn    phận và quyền lợi đối với nhau, cũng như đối với con    cái sẽ sinh ra.     
c)    Sau khi thành hôn, quyền lợi và bổn phận đó cần được    bảo đảm lâu dài, nên cần có thêm sự hiện diện của hai    nhân chứng.     
d)    Khi đã chấp nhận công khai hóa như thế, hai người sẽ dễ    dàng trung     
thành     với nhau hơn.     
Ðó    là nghi thức công khai và chính thức được áp dụng trong    các trường hợp chung. Trong những trường hợp riêng (CIC 1116;    1127, 2-3), dĩ nhiên GH có thể chuẩn chước hình thức kết    hôn này. Ngoài ra, Công đồng Vatican II còn cho phép GH địa    phương được nghiên cứu và thí nghiệm những nghi thức đặc    thù, hợp với tinh thần, phong tục, văn hóa địa phương.    Ðiều cần duy trì trong các nghi thức địa phương này là    Linh mục phải chủ tọa lễ nghi Hôn Phối đó (De Sacra Liturgia,    số 77).     
Vì    mọi Bí tích đều liên quan trực tiếp tới Bí tích Thánh    Thể, nên Bí tích     
Hôn     Phối cũng thường được cử hành chung với Bí tích Thánh    Thể trong khuôn khổ của một Thánh Lễ. GH ấn định phải    cử hành Bí tích này sau bài Phúc Âm, bài giảng và trước    phần Lời nguyện giáo dân trong Thánh Lễ (Sacrosanctum Concilium,    số 61 và 78). Hiến chế này cũng tiên liệu những trường    hợp có thể cử hành Bí tích Hôn Phối ngoài Thánh Lễ, dưới    hình thức một buổi Phụng vụ Lời Chúa, nhất là trong những    trường hợp hôn phối (tạm dịch là) dị tín (mariage mixte,    konfessionsverschiedene Ehe) hoặc dị giáo (disparité de culte,  religionsverschiedene    Ehe). Hôn nhân được gọi là dị tín, khi một người Công    giáo lấy một người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy trong    GH của họ, nhưng không phải là Công giáo, thí dụ: một người    Tin lành, một người Chính thống (orthodoxe)... Hôn nhân được    gọi là dị giáo, khi một người Công giáo lấy một người    chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, thí dụ: một người Do    thái giáo, một người Hồi giáo, một người Ấn độ giáo,    một người Phật giáo... Trong trường hợp dị tín, nếu muốn    cử hành Bí tích Hôn Phối trong khuôn khổ một Thánh lễ,    cần có phép của Giám mục (xx. Ordo celebrandi matrimonium). Trong    trường hợp dị giáo, thường không được phép cử hành    Hôn phối trong một Thánh lễ, tuy nhiên còn tùy luật riêng    của từng Giáo phận địa phương.     
Khi    thấy cần cử hành Hôn Phối ngoài khuôn khổ của một Thánh    Lễ, xin đừng coi đó là "Hôn Phối hạng hai" hoặc chỉ là    "Phép giao" như nhiều người lầm tưởng. Trước khi cử hành    Hôn Phối, hai người và họ hàng nên bàn hỏi với Linh mục    hữu trách, để cùng quyết định chọn một hình thức sao    cho hợp tình hợp lý với cả hai bên, nhất là trong trường    hợp hôn phối với người khác đạo. Bí tích Hôn Phối là    một nghi thức Phụng vụ, đòi hỏi sự xác tín và chân thành    bề trong, không phải là một hình thức "phong tục" cần có,    để làm tăng thêm vẻ long trọng bề ngoài hoặc chỉ cần    "dàn cảnh" sao cho đẹp, nhằm ghi lại những lưu ảnh của    một ngày vui.     
 
	
	
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
 
	
    | 
 |