|
|
7. Thừa tác viên của Bí tích Hôn Phối
Trong Cựu ước, người cha trong gia đình thường đứng ra để chúc hôn cho hai con trong ngày họ thành hôn (Tb 7, 12t). Còn trong Bí tích Hôn Phối, ai là người đứng ra để ban Bí tích cho họ? - Thưa, là chính đương sự, là chính hai người đó! Họ là người chính thức có quyền ban Bí tích đó cho nhau, mà không phải là một vị đại diện GH như Giám mục, Linh mục hay Phó tế. Nói cách khác, họ là Thừa tác viên của Bí tích mà họ sẽ cùng nhau lãnh nhận trước mặt Chúa và trước mặt GH (GLCG, 1623). Ðó là điểm đặc biệt của Bí tích Hôn Phối, khác hẳn với các Bí tích khác. Ðó cũng là điểm khác biệt giữa GH Tây Phương và GH Ðông Phương. Ðối với GH Ðông Phương, Giám Mục và Linh mục mới là Thừa tác viên chính thức của Bí tích này.
Ðối với GH Công giáo, vị đại diện không phải là Thừa tác viên của Bí tích này nhưng chỉ đại diện cho 3 "pháp nhân" cùng một lúc: đại diện Chúa để chúc lành cho hôn ước; đại diện GH để chúc mừng đôi tân hôn; đại diện xã hội để làm chứng nhân cho hôn ước đã được ký kết giữa hai người. Ngoài ra, sự hiện diện của vị này cùng với hai nhân chứng còn nhằm diễn tả 3 ý nghiã sau đây: (1) Hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai họ, nhưng là nghi thức Phụng vụ chung của GH; (2) Hôn nhân không phải là chuyện riêng tư của hai người, nhưng là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa dành cho họ; (3) Nói lên sự lưu tâm của GH đối với hạnh phúc của hai người. Tóm lại, GH muốn đóng vai trò chứng nhân, để công nhận hôn ước, bảo vệ hạnh phúc và nâng đỡ hai người trên đường đời.
8. Ân sủng của Bí tích Hôn Phối
Ðời sống hôn nhân có thể coi là ơn thiên triệu, vì trong hôn nhân hai người đều được Chúa kêu gọi cộng tác trực tiếp vào chương trình sáng tạo và cứu độ nhân loại. Vì thế, trong Bí tích dẫn vào đời sống hôn nhân, Chúa làø nguồn gốc mọi ân sủng, sẽ thông ban cho hai người những ơn cần thiết để
họ chu toàn sứ mệnh Ngài trao phó. Ngoài những ơn thánh hóa, giúp họ sống xứng đáng là con cái Chúa trong đời sống hôn nhân và trợ giúp họ "san sẻ gánh nặng cho nhau" (Gl 6, 2), nghiã là giúp họ chia sẻ vui buồn, hạnh phúc cũng như đau khổ, thành công cũng như thất bại, hy vọng cũng như thất vọng, an vui cũng như lo lắng... trong đời sống chung, Chúa còn ban cho họ một ơn cao trọng khác: Ðó là ơn được tham dự cách đặc biệt vào sự hiệp thông giữa Chúa Kitô và GH Ngài (Ep 5, 21-33). Trong sự hiệp thông này, tình yêu của họ không còn là tình yêu giữa hai người, mà là tình yêu giữa ba người: Chúa hiện diện giữa họ. Tình yêu của họ không phải chỉ là tình tự nhiên mà còn là tình siêu nhiên: Yêu nhau như Chúa Kitô đã yêu GH (Ep 5, 25). Nghiã là qua Bí tích Hôn Phối, Chúa đã thánh hóa tình yêu của hai người dưới ba khiá cạnh sau đây:
(1) Tình yêu và lòng trung thành của họ là hình ảnh tình yêu và lòng trung thành của Chúa đối với dân Ngài. Tình yêu của họ được hiệp thông với tình yêu Thiên Chúa.
(2) Tình yêu đó giúp họ nên thánh trong đời sống hôn nhân và chu toàn sứ
mệnh dưỡng dục con cái.
(3) Tình yêu đó là hình ảnh của tiệc cưới Chiên Con, là hình ảnh hạnh phúc,
là hình ảnh an vui, là hình ảnh của tất cả các thực tại hoàn hảo nơi tình yêu
Thiên Chúa.
Như thế, chắc chắn hạnh phúc của họ sẽ được bảo đảm, tương lai con cháu họ sẽ được bảo đảm, không do một hãng bảo hiểm nhưng là do chính Thiên Chúa. Vì lúc nào Chúa cũng bên họ: "Thầy sẽ ở lại với các con, mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20).
9. Những điều kiện để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối
Ðể lãnh nhận Bí tích Hôn Phối cách thành phép (gueltig: valide), hai người
cần hội đủ ba điều kiện căn bản sau đây:
(1) Cả hai đều có khả năng về thể lý và tâm lý, để sống đời hôn nhân.
(2) Họ phải công khai hóa sự ưng thuận lấy nhau làm vợ làm chồng (causa efficiens).
(3) Họ đã cử hành Bí tích Hôn Phối theo nghi thức của GH.
Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên đây, Bí tích Hôn Phối dù đã lãnh nhận vẫn bị GH coi là bất thành phép (ungueltig: invalide). Trong ba
điều kiện nêu trên, điều kiện thứ nhất khá phức tạp, xin mạn phép giải thích thêm như sau:
a) Hai người đó phải gồm 1 người nam và 1 người nữ. Cả hai đều là người Công giáo. Ðó là trường hợp bình thường. Trường hợp ngoại thường, cần xin phép (Erlaubnis: permission) nếu là hôn nhân dị tín hoặc xin chuẩn (Dispens: dispense) nếu là hôn nhân dị giáo (xx. thêm số 11: Hôn nhân khác đạo).
b) Hai người phải hoàn toàn tự do: Tự do được hiểu theo hai nghiã sau đây:
(1) Không bị ép buộc bởi bất cứ ai, hoặc bởi bất cứ điều gì (thí dụ: sợ hãi);
(2) Không bị cản trở bởi Giáo luật hoặc luật tự nhiên.
c) Hai người phải có ý hướng kết hôn thật tình: Nghiã là, họ thực lòng muốn lấy nhau làm vợ làm chồng, muốn chung sống với nhau, để hưởng quyền lợi cũng như giúp nhau chu toàn bổn phận trong đời sống hôn nhân. Y¨ hướng đó cần phải được công khai hóa qua lời hôn ước: "Tôi là... nhận em/ anh... làm vợ/ chồng..." Ðây là yếu tố nền tảng để xây dựng hôn nhân và cũng là yếu tố nền tảng để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối. Vì thế, nếu thiếu ý hướng này, Bí tích Hôn Phối không thể thành phép được.
Dựa trên yếu tố nền tảng trên, những trường hợp sau đây có thể coi là thiếu ý hướng kết hôn thật lòng:
(1) Những người mắc tâm bệnh, không còn sử dụng được lý trí của mình nữa.
(2) Những người thiếu khả năng suy nghĩ và phán đoán, không còn biết đến quyền lợi cũng như trách nhiệm của hôn nhân.
(3) Những người bất lực về tâm lý để sống đời hôn nhân. Thí dụ: đồng tình
luyến ái hoặc cự tuyệt mọi chuyện liên quan tới tính dục...
(4) Do lầm lẫn: Lấy lầm người (personne) muốn lấy; kể cả khi lầm lẫn về phẩm chất (qualité) của người đó, nếu phẩm chất này được coi là yếu tố quyết định để thành hôn.
(5) Do gian lận: Chính đương sự hoặc người thứ ba đã gian lận hoặc che giấu sự thật để đạt mục đích kết hôn.
(6) Ðóng kịch. Thí dụ: Thực tình không muốn thành vợ chồng, nhưng vẫn cưới, để hưởng quyền cư trú, di dân... hợp pháp do hôn thú đem lại; hoặc khi đương sự không chấp nhận hoàn toàn những yếu tính của hôn nhân (bất khả phân ly...)
(7) Ðặt điều kiện rồi mới kết hôn. Thí dụ: đặt điều kiện chỉ lấy, nếu người
đó là người dị tình luyến ái (hétérosexuel). Nhưng sau khi cưới, mới biết
được họ là người đồng tình luyến ái (homosexuel).
(8) Bị áp lực hoặc do sợ hãi mà kết hôn.
Ai rơi vào một trong những trường hợp nêu trên, sẽ không thể lãnh nhận Bí tích Hôn Phối thành phép được. Mà dù có lãnh nhận, Bí tích đó vẫn vô hiệu và bất thành phép. Trong trường hợp này, ai đã lãnh nhận Bí tích Hôn Phối với người đó có thể xin tiêu hôn, để lãnh nhận Bí tích Hôn Phối thành
phép với một người khác.
10. Những ngăn trở không thể lãnh nhận Bí tích Hôn Phối
Bí tích Hôn Phối không thể thành phép trong những trường hợp sau đây
(CIC 1083-1094), nếu trước đó đương sự chưa được chuẩn chước (nhưng không luôn luôn có thể!). Ðó thường là những ngăn trở theo luật Chúa cũng như luật tự nhiên:
(1) Dưới tuổi tối thiểu: trai 16, gái 14. - Có thể chuẩn, với điều kiện tâm sinh lý đã đủ để kết hôn. Tuy nhiên, Hội đồng Giám Mục địa phương có thể ấn định một mức tuổi cao hơn.
(2) Thiếu vĩnh viễn khả năng tình dục (impotentia coeundi). - Không thể chuẩn!
(3) Khi Bí tích Hôn Phối lãnh nhận trước đó vẫn còn hiệu lực. - Không thể
chuẩn!
(4) Hai người theo hai tôn giáo khác nhau (disparitas cultus: dị giáo).
- Toà Giám mục có thể chuẩn.
(5) Chức thánh (từ Phó tế trở lên, kể cả Phó tế vĩnh viễn, sau khi người vợ qua đời, ông cũng bị ngăn trở tái hôn). - Ðức Thánh Cha có thể chuẩn cho chức Linh mục; Giám mục và Cha sở... có thể chuẩn cho chức Phó tế trong trường hợp nguy tử.
(6) Ðã khấn trọn đời (vĩnh thệ) trong một dòng tu. - Tòa Thánh có thể chuẩn.
(7) Bắt cóc hoặc làm áp lực để cưỡng hôn.
(8) Khi một hoặc cả hai người trực tiếp hay gián tiếp âm mưu thủ tiêu chồng hoặc vợ của mình hoặc của người mình yêu, để rảnh rang kết hôn với họ.
(9) Họ máu: (a) Theo hàng dọc: Ngăn trở không giới hạn: ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt..., dù là do ngoại hôn. - Không thể chuẩn! (b) Theo hàng ngang: Ngăn trở trong vòng 4 đời theo giáo luật mới (1983). Nên biết: 4 đời theo giáo luật mới chỉ bằng 2 đời (Cousin - Cousine) theo giáo luật cũ (1917). Có sự khác biệt này, vì Giáo luật mới căn cứ theo cách tính của Roma và luật dân sự hiện hành, nghiã là kể cả họ hàng hai bên. Còn Giáo luật cũ lại theo cách tính của luật Nhật nhĩ man (germanisch- rechtlich). Ðó cũng là cách tính thông thường trong gia phả Việt Nam. - Hai đời hàng ngang (anh chị em ruột) không thể chuẩn! Nhưng xa hơn, có thể chuẩn.
(10) Họ kết bạn: Họ kết bạn chỉ được tính giữa người chồng với người họ máu bên vợ; cũng như giữa người vợ với người họ máu bên chồng. Nếu vợ hoặc chồng của đương sự có họ với người đó bao nhiêu đời, thì đương sự cũng có họ với người ấy bấy nhiêu đời. Tuy nhiên, ngăn trở hôn phối này chỉ được tính theo hàng dọc. Thí dụ, khi bố chồng lấy nàng dâu, bố ghẻ lấy con ghẻ mới bị ngăn trở hôn phối - Có thể xin chuẩn.
(11) Vì thanh danh: Ngăn trở giữa đương sự với người có họ máu bên vợ hoặc bên chồng, mà đương sự đã cưới không thành phép. Thí dụ: Một ông Công giáo góa vợ, có một con trai. Nếu ông về chung sống với một bà Công giáo ly dị, thì dù cả hai mới cưới nhau theo luật dân sự (dĩ nhiên không có Hôn Phối đạo!), nhưng giữa bà và cậu con trai của ông vẫn mắc ngăn trở hôn phối, nếu họ muốn lấy nhau theo phép đạo. Ngăn trở 1 đời hàng dọc. - Có thể xin chuẩn.
(12) Họ con nuôi: Bị ngăn trở theo hàng dọc và 2 đời theo hàng ngang. Thí dụ: Khi lấy người mà đương sự đã nhận làm con nuôi (họ hàng dọc) hoặc khi lấy anh chị em do cha mẹ của đương sự đã nhận về làm con nuôi (2 đời hàng ngang). - Có thể xin chuẩn.
Trong các thứ ngăn trở nêu trên, có thứ ngăn trở thường gặp - nhất là trong hoàn cảnh hiện nay - đó là ngăn trở thứ 4: ngăn trở dị giáo. Vì thế, xin mạn phép nói thêm trong phần dưới đây:
11. Hôn phối giữa những người không cùng một niềm tin
Giáo luật phân biệt: Hôn phối dị tín (konfessionsverschiedene Ehe) hay còn gọi là hôn phối hỗn hợp (mixta religio: mariage mixte) và hôn phối dị giáo (disparitas cultus: disparité de culte: religionsverschiedene Ehe). Hôn phối dị tín là hôn phối giữa một người Công giáo và một người không Công giáo, nhưng đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (entre catholique et baptisé non catholique). Thí dụ: giữa một người Công giáo và một người Tin Lành hay Chính Thống... Còn hôn phối dị giáo là hôn phối giữa một người Công giáo và một người chưa được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy (entre catholique et non-baptisé). Thí dụ: giữa một người Công giáo và một người Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo...
Giáo luật ngày xưa còn phân biệt: Hôn phối Kitô giáo (matrimonium christianum) và hôn phối bán Kitô giáo (matrimonium semichristianum).
Như thế, sự phân biệt trên đây lấy Bí tích Thánh Tẩy làm nền tảng. Khi hai
người đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối của họ là hôn phối Kitô giáo, có Bí tích (sakramentale Ehe). Còn khi một trong hai người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, hôn phối của họ là hôn phối bán Kitô giáo, không có Bí tích (nichtsakramentale Ehe).
Cần phân biệt rõ ràng, để tránh những những hiểu lầm đáng tiếc trong thực tế.
Muốn cử hành hôn phối dị giáo, cần có phép chuẩn (Dispens: dispense) của Tòa Giám mục. Nếu không, Giáo luật (CIC 1086) sẽ coi hôn phối đó là bất thành phép (ungueltig: invalide). Ngày xưa, còn bị "rút phép thông công" (exkommuniziert: excommunié). Trong khi đó, muốn cử hành hôn phối dị tín, chỉ cần xin phép (Erlaubnis: permission) Tòa Giám mục. Nếu không, Giáo luật (CIC 1124) chỉ coi đó là hôn phối bất hợp pháp (unerlaubt: illicite) mà thôi. Như thế, hôn nhân dị giáo vẫn còn là một ngăn trở; trong khi đó hôn nhân dị tín không còn là một ngăn trở như trước nữa.
Khi có đơn xin của Linh mục hữu trách, Tòa Giám mục sẽ chuẩn, để hai người có thể cử hành hôn phối dị giáo với nhau. Phép chuẩn thường đi đôi với điều kiện: Phiá Công giáo hứa sẽ tiếp tục giữ đạo và luôn ý thức trách nhiệm lo cho con cái sau này được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và giáo dục chúng theo đường lối của GH. Dĩ nhiên, phiá không Công giáo cũng cần biết trước về những nghiã vụ của người Công giáo mà họ muốn kết hôn.
Dù chuẩn chước như thế, nhưng cả hai GH Tin Lành cũng như Công giáo đều khuyên các tín hữu nên khôn ngoan, vì một cuộc hôn nhân như vậy có thể gây nguy hại cho Ðức tin của mình và cho hạnh phúc của gia đình mình, nhất là đối với hôn nhân dị giáo. Dĩ nhiên có những trường hợp đặc biệt, khi cả hai cùng sống đạo sốt sắng, họ trở thành "gạch nối" sống động giữa những người Công giáo và những người không Công giáo. Tuy nhiên, cũng không thiếu những trường hợp cả hai sẽ dần dần "nguội lạnh". Chẳng ai còn tha thiết tới vấn đề tôn giáo và dửng dưng với cả vấn đề giáo dục con cái trong lãnh vực Ðức tin. Ðó là điều nguy hiểm. Khi lớn lên, con cái họ có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng tâm linh, vì khó xác định được căn tính đạo giáo của mình, và vì thế dễ biến thành "vô thần" trong thực hành... Ðứng trước khó khăn thực tế đó, GH có bổn phận khuyên phía Công giáo hãy cố gắng lo cho con cái mình được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy và giáo dục chúng theo đường lối GH, để chúng sớm có một "tổ ấm" yên vui về mặt tâm lý cũng như tâm linh (GH Chính Thống cũng khuyên như thế, khi chuẩn chước việc cử hành hôn phối với người ngoài Chính thống). Trường hợp đã cố gắng hết sức mà không thành, người Công giáo vẫn có bổn phận đồng hành với con cái trong đời sống tôn giáo và cầu nguyện cho chúng, bằng chính đời sống và gương mẫu của mình.
Ngày nay, khi chuẩn bị hôn phối cho những cặp không cùng một tôn giáo, người ta có dịp nghe lại một nhận xét quen thuộc: "Ðạo nào cũng là đạo". Nhận xét đó thường đi liền với kết luận: "Ðạo ai người đó giữ". Kết luận này không nên hiểu theo nghiã tiêu cực là "thả lỏng" cho người kia giữ đạo, mà còn cần được hiểu theo nghiã tích cực là cả hai cùng khuyến khích và nâng đỡ nhau sống đạo của mình nữa. Ngoài ra, để bảo vệ và xây dựng hạnh phúc chung, hai người cần biết thêm về những điểm tương đồng cũng như dị biệt trong niềm tin của nhau, để kính trọng nhau bằng cách tôn trọng niềm tin đó suốt đời.
Ðứng trước một cuộc hôn nhân như thế, nếu có đặt vấn đề giáo dục con cái trong tương lai, người ta cũng thường nghe: "Cứ để lớn lên, rồi chúng chọn". Ðó là một quyết định đẹp trong lý thuyết, nhưng rất tiếc không đẹp trong thực hành. Lý do dễ hiểu, là nếu con cái sau này lớn lên trong một bầu khí "phi tôn giáo" như thế, chúng sẽ biết gì để mà chọn. Muốn chọn lựa chín chắn, cần phải biết rõ về những cái mình sẽ chọn. "Paris không được kiến thiết trong một ngày", kiến thức cũng không rộng trong vòng một buổi. Ðó là chưa nói tới tâm tình tôn giáo cần phải được nuôi dưỡng lâu dài, hoặc trường hợp ngoài ý muốn của mọi người là chúng sẽ "chọn" cái không chọn gì hết!
Dĩ nhiên, khi yêu nhau người ta sẵn sàng chấp nhận vượt qua mọi biên giới. Nhưng khi vượt được biên giới, cũng có nghiã là bắt đầu sống tha hương. Trong thực tế, mấy ai tha hương mà hạnh phúc: hạnh phúc đích thực? Hơn nữa, khi yêu "tình sẽ mạnh hơn sự chết". Ðó là tình lý tưởng. Pha một chút lãng mạn. Nhưng khi sống, cần thực tế, hôn nhân mới hạnh phúc. Ðể xây dựng hạnh phúc, cần con tim và cần cả lý trí. "Hai trái tim vàng" thôi chưa đủ, cần hai bộ óc sáng suốt nữa. Chút men lãng mạn sẽ làm cho người ta say, nhưng luồng gió thực tế sẽ làm cho người ta tỉnh. Chỉ tiếc, khi tỉnh mộng trên con đường một chiều cũng là lúc người ta bắt đầu sống thực với ác mộng dài lâu. Trong thực tế, đã có nhiều người sống với ác mộng như thế. Vì theo các nhà nghiên cứu về hôn nhân và gia đình như Bumpass, Sweet, Diekmann, Heaton, Kuenzel và Teachman, các cuộc hôn nhân giữa những người không cùng một niền tin thường dễ đưa đến đổ vỡ hơn là những trường hợp bình thường khác.
Sưu tầm |
|