Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Chủ đề: TỘI LỖI (TRÌNH BÀY VỀ TỘI CHO NGƯỜI HÔM NAY)

Threaded View

  1. #3
    toliem1510's Avatar

    Tham gia ngày: Jun 2009
    Giới tính: Nữ
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 211
    Cám ơn
    453
    Được cám ơn 1,254 lần trong 204 bài viết

    Default CHƯƠNG II: TỘI NGUYÊN TỔ - Phần 1

    CHƯƠNG II: TỘI NGUYÊN TỔ

    Một tội điển hình: tội của Ađam và Eva
    Tôi không có tham vọng giới thiệu một công trình nghiên cứu tội nguyên tổ một cách chuyên sâu, mà chỉ muốn giúp các bạn, nhờ một số kỹ thuật của khoa phân tâm, đọc lại tội nói ở sách Sáng thế đoạn 3 (có thể coi đó là một tội điển hình) với một cái nhìn mới. Hy vọng nhờ đó chúng ta sẽ hiểu rõ hơn tội ‘bắt đầu’ từ đâu (hay cám dỗ là gì), tội hệ tại ở chỗ nào và hậu quả của tội. Để kết thúc, tôi sẽ nêu ra vắn tắt vài điểm làm mốc để suy nghĩ về ‘tội thụ sinh’ (péché origéné) nghĩa là tình trạng của mọi người khi sinh ra , phân biệt với ‘tội tác sinh’ (péché originant) là tội của tổ tiên nhân loại.

    I. VÀI LƯU Ý ĐẦU
    VỀ St 3+ Lưu ý thứ nhất.
    Hành vi của tổ tiên nhân loại, mô tả ở St 3 không được gọi là sự ‘sa ngã’. Cần lưu ý điểm này, vì nói ‘sa ngã’ tự nhiên ta nghĩ ngay tới việc rơi xuống từ một tình trạng đặc biệt, từ tình trạng ở ‘trên mức tự nhiên’ xuống tình trạng thấp hơn là tình trạng tự nhiên thuần tuý. Thế nhưng, lát nữa ta thấy nhìn như thế là sai. Vì vậy, tốt hơn nên gọi bản tường thuật St 3 là bản tường thuật về một hành vi quá phạm; con người kể trong bản tường thuật ấy không hề bị tước mất những ân huệ đặc biệt.

    + Lưu ý thứ hai.
    Bản tường thuật tội Ađam và Eva không được nhắc tới nhiều trong Kinh thánh. Cựu ước chỉ liên tưởng tới đó có hai lần ở Hc 25,24 và Kn 2,24. Đối với Tân ước, phải phân biệt các sách Tin mừng và toàn bộ tác phẩm của Phaolô. Trong các Tin mừng, Đức Giêsu không nghĩ tới bản tường thuật đó một cách rõ ràng, ngoại trừ ở Gioan 8,44. Đang khi ấy, Phaolô dành một chỗ rất lớn để nói tới sư quá phạm của Ađam. Tại sao vậy? Vì Phaolô rất nhạy cảm với sự liên đới với mọi người trong ơn cứu độ do Đức Kitô, Con người mới, Ađam mới, mang lại. Và nhân dịp đó, Phaolô nói đến sự liên đới của mọi người trong tình trạng tội lỗi do tội của Ađam gây ra. Nói cách khác, (lưu ý này rất quan trọng) chính vì đề cập đến Đức Kitô (Kitô học) mà Phaolô mới suy nghĩ về Ađam hay về cái mà các nhà thần học gọi là luận về Ađam (hay Ađam học).

    + Lưu ý thứ ba.
    Thể văn tường thuật này theo truyền thống Giavítta (có từ năm 950 trước Công nguyên) là một thể văn huyền thoại theo nghĩa tốt. Như vậy, bản văn này không có ý mô tả một biến cố lịch sử. Hơn thế nữa và quan trọng nhất, như Paul Ricoeur giải thích, bài tường thuật ấy có ý ‘cụ thể hoá một điều phổ quát’ hay là một cách khái quát hoá kinh nghiệm của con người. ‘Ông’ Ađam đó chính là hết mọi người. Vì thế, ai cũng có thể tìm thấy đôi chút kinh nghiệm của bản thân mình, khi đọc bản văn đã được viết cách đây gần 3000 năm đó. Sau cùng huyền thoại ấy giúp ta suy nghĩ không ngừng về diễn biến của lịch sử, có lưu ý đến thân phận nhân loại của mình.

    + Lưu ý thứ tư.
    Bài tường thuật này rất có thể đóng vai trò tầm nguyên (étiologique). Nghĩa là giúp suy nghĩ về nguồn gốc của sự dữ hay những xáo trộn của lịch sử con người. Ai cũng biết sự dữ là một trong những vấn nạn căn bản của con người. Paul Ricoeur nói: đó là ‘sự chọc giận lớn nhất bắt ta phải suy nghĩ và là sự mời mọc thâm hiểm nhất bắt ta phải chửi rủa’. Quả thế, sự dữ bắt ta nghĩ đến sự phi lý. Khi đụng chạm sự dữ, trong đầu ta nghĩ đến hai câu hỏi: sự dữ bởi đâu mà có? và tại sao có? Tôn giáo nào cũng bận tâm tới vấn đề nhức nhối này. Để nắm được nét độc đáo của suy tư Kitô giáo về vấn đề này, tôi xin kể ra bốn giải pháp cổ điển đã được các tôn giáo đưa ra trong lịch sử.
    - Một số tôn giáo cho rằng sự dữ đã có từ nguyên thuỷ và xuất phát từ sự hỗn mang nguyên sơ. Nếu vậy, cứu độ là một hành vi của một Thiên Chúa nhân hậu chống lại sự hỗn mang đó để tạo thành vũ trụ.
    - Có tôn giáo cho rằng có 2 nguyên lý sáng tạo: một thần tạo ra điều tốt và một thần làm ra sự dữ.
    - Một vài tôn giáo và huyền thoại khẳng định chính Thiên Chúa gây ra cám dỗ; đó là một Thiên Chúa mù quáng và sai lầm, bắt con người phải theo một định mệnh rất bi thảm và con người không thể nào đi ngược lại. Những suy tư này có rất nhiều trong các vở kịch Hy lạp.
    - Sau cùng có tôn giáo chủ trương sự dữ có là do một số linh hồn sa đoạ; đó là các mảnh hồn của thần linh rơi vào vật chất. Thân xác là một cơ cấu xấu xa từ ngoài chụp lấy con người. Sự dữ chính là tính trần tục của thế giới. Cứ theo chiều hướng suy nghĩ đó thì con người không phải chịu trách nhiệm về sự dữ, dù chính mình cưu mang nó.
    Trước những cách giải thích đó, bài tường thuật về sự quá phạm của Ađam là một nỗ lực của đức tin Do thái giáo muốn suy tư về vấn đề căn bản ấy: vấn đề nguồn gốc sự dữ và sự thiện. Trọng tâm của bài tường thuật là phân biệt hai mặt của nguồn gốc tạo vật:
    - Một đàng, sự thiện xuất phát từ một nguồn gốc uyên nguyên là Thiên Chúa; Người đã làm ra tạo vật tốt đẹp.
    - đàng khác, sự dữ phần nào là do một cặp vợ chồng đã tự ý vi phạm một mệnh lệnh của Thiên Chúa, dù chính họ cũng do Thiên Chúa tạo ra. Tôi nói phần nào, vì như sẽ thấy, trước mặt Ađam và Eva lúc đó có con rắn, một kẻ đã bóp méo Lời Chúa trước cả Ađam và Eva (cf. P. Ricoeur, ‘Finitude et culpabilité’, t.2: ‘La symbolique du mal’, Aubier-Montaigne, 1960).
    Như thế, trong Kinh thánh, sự dữ phần nào không còn là định mệnh tất yếu và đã được xác định là một sự kiện lịch sử, đang khi trong các huyền thoại khác sự dữ là một vết nhơ lan tới con người dù con người không muốn. Theo St 3, con người được giới thiệu như kẻ có tội, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về một số sự dữ và một số trục trặc trong lịch sử. Theo nghĩa đó, câu chuyện huyền thoại của Kinh thánh có một chức năng là làm nền tảng cho khoa đạo đức: con người không phải là một con rối hoàn toàn thụ động trước những sự tất định xấu xa. Con người là một hữu thể tự do, có thể tự điều khiển tương lai của mình một phần nào.
    Bây giờ ta hãy đi vào chi tiết câu chuyện quá phạm của Ađam. Vì không thể hiểu bài tường thuật này ngoài bài tường thuật về sự sáng tạo trước đó, nên tôi sẽ giúp các bạn đọc St 2 trước. Tuy nhiên tôi sẽ tạm gác các bản văn này để nói tới một số dữ kiện đang phổ biến của phân tâm học. Nhờ đó ta sẽ thấy rõ hơn hai bản tường thuật của St 2 và 3 có nội dung rất súc tích về nhân loại học. Quả là có một sự tương ứng rất đặc biệt giữa những quan điểm nhân loại học hiện nay và những cái nhìn có thể rút ra từ hai bản văn đó. Có thể có người trách tôi là đã rơi vào chủ nghĩa tương phù (concordisme), nghĩa là tìm mọi cách để cho Thánh kinh và khoa học ăn khớp với nhau. Thiết tưởng nói thế là không đúng, vì tôi không hề bảo rằng mục tiêu của các bài tường thuật trong Kinh thánh là mô tả một cách khoa học sự xuất hiện của con người và phân tích tâm lý con người. Sự tương ứng giữa các nghiên cứu hiện nay và những khẳng định của các bài tường thuật ấy cho thấy rằng Lời Chúa đã nói và đã đến với chúng ta qua những cơ cấu căn bản nhất của con người.

    II. VÀI DỮ KIỆN PHỔ BIẾN CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ SỰ SINH THÀNH CỦA CON NGƯỜI

    Ta hãy suy nghĩ về sự sinh thành của con người. Ngay từ phút khởi đầu, mỗi chủ thể là một hữu thể mà tiếng La tinh gọi là ‘infans’, nguyên ngữ có nghĩa là ‘chưa có khả năng nói’. Hữu thể ấy trước hết sống trong bụng mẹ. Tình trạng nguyên thuỷ của hữu thể ấy là sống trong một thế giới chưa phân định (thế giới của đồng nhất), mà trong sơ đồ dưới đây ta có thể hình dung như một quả trứng. Thế giới ấy được gọi là thế giới hỗn hợp, theo nghĩa có một sự cộng tác toàn diện giữa hữu thể ấy với nguồn gốc của mình, tức là mẹ mình. Thế giới hỗn hợp ấy sẽ ảnh hưởng đến hữu thể này suốt đời qua một số dấu vết còn tồn tại mãi. Nếu vậy, thế giới nguyên thuỷ này có những đặc điểm gì?

    Có bốn hay năm đặc điểm. Quan trọng nhất là không có sự phân định. Quả thế, thế giới nguyên thuỷ này không có hai sự khác biệt quan trọng nhất là thời gian, một đặc điểm của mọi cuộc sống về sau, và sự hiện diện của người khác mà ta phải đương đầu để tồn tại. Đàng khác, bên dưới thế giới hỗn hợp ấy không có một sự trung gian nào, vì có trung gian là giả thiết hai bên có sự khác nhau. Đó cũng là một thế giới không hề sứt mẻ, đặc biệt là hai sự sứt mẻ quan trọng mà ta từng gặp trong đời: sự thất bại và, triệt để hơn, cái chết. Cuối cùng, đó là một thế giới của sự vạn năng mà người ta hằng mơ ước: thai nhi chưa hề biết người khác và chỉ sống trong vòng tay của chính mình hay của cái gì giống hệt mình. Vì thế, dường như không gì có thể chống lại quyền lực của thai nhi.

    Đó chính là thế giới nguyên thuỷ cuả mỗi người chúng ta, có để lại nhiều dấu vết trong cuộc đời ta, và dù lớn đến đâu đi nữa, ta vẫn không nguôi nhớ nhung thế giới ấy. Đành rằng đó là thế giới tuyệt diệu, nhưng giam mình trong đó là tự kết án không cho mình được có mặt trong thế giới (thật)! Vì thế, trở thành con người là chấp nhận từ bỏ thế giới hỗn hợp ấy để đi tìm tha nhân trong sự khác biệt. Nói cách khác, ngay ở phút đầu cuộc đời ta, đã có một cuộc vượt qua: từ bỏ để tìm gặp. Thai nhi, một hữu thể chưa biết nói, phải rời bỏ tình trạng hỗn hợp nguyên thuỷ ấy để trở nên cái mà Lacan gọi là ‘parlêtre’ (parler-être), nghĩa là một chủ thể biết nói, có thể liên lạc, yêu mến. Sống là luôn luôn biết hoà hợp các ký ức về sự đồng nhất hằng ám ảnh ta với sự khác biệt đang chờ đợi và chi phối ta.

    Dĩ nhiên từ bỏ một thế giới tuyệt vời như thế không phải làm một lần là xong: không phải ra khỏi bụng mẹ là đã từ bỏ xong. Cần phải có một thẩm cấp bên trên giúp cho hữu thể chưa biết nói ấy (‘infans’) biết từ kinh nghiệm hiện sinh của mình rằng từ nay nó không thể và bị cấm tái tạo lại thế giới tuyệt vời ấy, thế giới mà nó cho là mình đã sống vào thuở ban đầu. Cấp trên ấy sẽ làm cho hữu thể này tỉnh mộng, đẩy nó tới chỗ chỉ còn cách là từ bỏ thế giới nguyên thuỷ ấy: nó thấy mình bị cấm sống trong tình trạng bất phân định, như sơ đồ cho thấy từ nay giữa hữu thể ấy với nguồn cội của nó sẽ mãi mãi có một lỗ hổng, một sự thiếu hụt. Từ đó nó bị cấm không được tái tạo lại một thế giới bất phân định, một thế giới không sứt mẻ, một thế giới vạn năng. Cũng theo sơ đồ này, ta thấy ngay cần phải có sự cấm chế ấy chủ thể mới vươn lên được. Nếu vậy, sự cấm chế làm cho sống chứ không giết chết vì nhờ đó chủ thể không còn bị đồng nhất với mình và người khác. Nói cách khác, từ nay trong quan hệ nhân bản sẽ luôn luôn có ba cực: người khác, tôi và sự thiếu hụt (lỗ hổng). Thậm chí có thể nói ngay cả đối với bản thân mình cũng luôn luôn có ba cưc: tôi quan sát, tôi bị quan sát và sự thiếu hụt (lỗ hổng). Thế là chấm dứt ước mơ muốn người khác và bản thân mình hoàn toàn trong suốt đối với mình; mình không còn thấu hiểu mình và người khác hoàn toàn được nữa.

    Nếu vậy, thẩm cấp đưa ra cấm chỉ ấy là gì? Đó chính là cái mà ngôn ngữ chuyên môn của phân tâm học gọi là ‘quy luật tổ tiên’. Đây không phải chỉ là quy luật của người cha bằng xương bằng thịt, nhưng ám chỉ một thực tại rộng lớn hơn. Có thể nói đó là quy luật của văn hoá, nhất là quy luật của ngôn ngữ bắt ta phải đi qua các yếu tố trung gian của ngôn ngữ và như thế giữa ta và điều ta muốn nói có một khoảng cách. Nói luôn luôn là giữ một khoảng cách nào đó với các sự vật mà ta muốn nói. Nói về một điều gì là không còn đồng nhất mình với sự vật ấy nữa, mà là tạo ra và nhìn nhận có một lỗ hổng giữa ta với sự vật ấy.

    Nói cách khác, dựa vào những suy tư đã được phổ biến của khoa phân tâm, ta thấy sống chính là thực hiện một kiểu hiện diện có nhìn nhận những khác biệt, từ bỏ tình trạng vạn năng, đồng nhất với người khác, để công nhận vai trò trung gian của các thực tại văn hoá. Trong các bài tường thuật có tính huyền thoại ở St 2 và 3 có nhiều điểm tương tự loại suy khá đặc biệt của khoa nhân loại học hiện nay, dù các bản tường thuật ấy có đóng góp thêm nhiều dữ kiện về thân phận con người trước mặt Chúa.


    Chữ ký của toliem1510
    Từng ngày xin đồng hành với con, Chúa ơi!

  2. Có 3 người cám ơn toliem1510 vì bài này:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com