|
CHƯƠNG III: QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO VỀ TỘI
Trong phần cuối cùng này chúng ta sẽ xem xét vài điểm mốc rút ra được khi nhìn tội theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, để có thể nắm được nét độc đáo của quan niệm đó, và để tránh những sự lẫn lộn có thể có giữa các hình thức tội, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu khái quát nguồn gốc sinh ra ý thức về tội. Lúc đó ta sẽ thấy rõ khái niệm tội là một khái niệm rất độc đáo và chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi xét trong quan hệ của con người với Thiên Chúa.
I. VÀI SUY NGHĨ VỀ Ý THỨC TỘI
Ý thức về tội là gì? Đó là một thực tế bên trong tâm lý làm cho lương tâm ta có cảm tưởng như bị một sức mạnh gì đó đè nặng, ta cảm thấy như có một vết thương do sự hối hận dày vò gây ra và có cảm tưởng như đang đứng trước một toà án nội tâm chờ nghe xét xử và chịu phạt. Chính vì thế, ý thức về tội luôn luôn có kèm theo một tiếng gọi nội tâm kêu mời ta sửa chữa. Các nhà tâm lý học, nhất là các nhà phân tâm, rất lưu ý tới nguồn gốc phát sinh ra ý thức về tội. Một số người đã cho biết ý thức ấy có một nguồn gốc rất xa xưa: ý thức ấy có liên hệ với những cảm giác dễ chịu hay khó chịu mà đứa bé nào cũng cảm thấy khi chào đời được ít tháng. Tuy nhiên, nhiều vị khác cho rằng ý thức ấy chỉ có khi con người biết rằng mình đã không đáp lại một ước muốn của người khác, một ước muốn có giá trị như một mệnh lệnh, một quy luật. Trong trường hợp đó, ý thức về tội chẳng qua chỉ là một hình thức biểu hiện sự lo âu vì chẳng những không còn được đối tượng của mình yêu thương mà thậm chí còn bị công kích nữa. Một nhà phân tâm nổi tiếng là bà Mélanie Klein đã tiến hành các nghiên cứu của mình theo chiều hướng đó. Theo bà, ý thức về tội bắt đầu xuất hiện là do đứa trẻ vừa khao khát chiếm lấy mẹ vừa sợ bị trả thù.
Còn Freud cho rằng ý thức về tội chỉ có mãi sau này, khi đứa trẻ bước vào thời kỳ mặc cảm Oedipe. Trong thời kỳ này (từ 3 đến 6 tuổi) đứa trẻ bước vào một trò chơi rất phức tạp: quan hệ với cha mẹ vừa yêu thương vừa chống đối nó. Sự xuất hiện của người cha và những lời cấm đoán của ông làm đứa trẻ hiểu rằng nó phải vĩnh viễn rời bỏ đối tượng yêu thương đầu tiên của mình, tức là mẹ nó. Sự cấm đoán căn bản của người cha đó, cùng với nhiều sự cấm đoán khác của cha mẹ và văn hoá, sẽ được đưa sâu vào nội tâm đứa trẻ, làm thành một hệ thống giám sát mà Freud gọi là siêu ngã. Hệ thống này hoạt động theo 2 cách. Trước hết như một toà án sẵn sàng kết tội; và như một lý tưởng đề ra cho đứa trẻ. Nếu vậy, theo Freud, tội chẳng qua chỉ là nỗi lo sợ khi đứng trước cái siêu ngã đang tìm hết cách đè nén xuống các ước muốn bị các nhà giáo dục cấm đoán đề ra. Như thế, ý thức về tội là một cách cho thấy nỗi lo lắng về hình phạt cũng như lo sợ bị người yêu bỏ rơi.
Có nhiều điểm trong lý thuyết này đáng lưu ý.
Trước hết, Freud nhận xét có thể có ý thức về tội một cách vô thức: một kiểu nói hơi lạ vì làm sao đã có cảm thức hay ý thức mà còn vô thức? Thật vậy, đương sự có ý thức về một ‘vết thương day dứt’ nơi tâm hồn mình hay một sự khó chịu nào đó trong tâm lý. Nhưng đương sự không ý thức rằng sự khó chịu ấy là do tội mình. Thậm chí trong những trường hợp tâm bệnh, nhiều người bị ‘vết thương’ ấy dày vò đã cố tình làm một hành vi phạm pháp chỉ nhằm mục đích làm sao để thấy được nguyên nhân đã khiến mình bất an. Lúc đó, thật ngược đời, tình trạng có tội lại là nguyên do đưa đến tội!
Thứ đến, ý thức về tội có chiều kích xã hội ở chỗ văn iminh xã hội thường lợi dụng tình trạng con người tự chống đối mình để bảo vệ sức mạnh của xã hội trong chừng mực có thể chấp nhận được. Đây là điều có lẽ ta hay thấy trong cuộc sống: chính áp lực xã hội đã góp phần làm tăng ý thức về tội nơi ta và như thế đã quay tính gây hấn của ta chống lại ta thay vì hướng ra ngoài.
Sau cùng, - đây cũng là đều quan trọng đối với những suy tư của ta về tội – tình trạng lo âu về tội không trực tiếp hướng ta tới người khác nơi chính bản thân họ. Mà đúng hơn, nó phản ảnh một cuộc xung đột trong chính nội tâm của ta. Có thể nói, tình trạng có tội như đang diễn ra trước tiên giữa tôi và chính bản thân tôi. Chính vì thế, các nhà tâm lý cũng như các bậc thầy tu đức thường lưuy ý: trong ý thức tội hay tình cảm hối hận vẫn còn dấu vết khá đậm của sự tự ái.
II. TỘI: MỘT Ý NIỆM THẦN HỌC
Đặc điểm của ý thức về tội như vừa mô tả hệ tại ở chỗ, đó là một thực tại thuần tuý bên trong tâm lý, nghĩa là tha nhân (anh em tôi hay Thiên Chúa) chỉ xuất hiện trong ý thức đó dưới hình thức là một đối tượng đã được đưa vào nội tâm, không cần biết bên ngoài tha nhân ấy có hiện hữu thật sự không.
Quan điểm của Kitô giáo về tội đi ngược hẳn quan niệm vị kỷ ấy (lấy cái tôi làm trọng tâm). Quả thế, Mạc khải dạy rằng tội không phải là ‘chuyện’ giữa tôi với bản thân tôi, mà là một thực tại có đụng chạm trước tiên tới ’Người khác’, Người khác này là chính Thiên Chúa. Như vậy, ý niệm tội là một ý niệm thần học đúng nghĩa. Tội là một thực tại có Chúa làm trung tâm (théocentrique), hay đúng hơn, là một thực tại đẩy Chúa ra khỏi trung tâm (théo – excentrique), vì khi phạm tội người ta tìm cách đẩy Chúa ra khỏi trung tâm. Ta hãy giải thích điều này.
A. Tội là đối tượng của mạc khải
Tội là một thực tại liên hệ đến quan hệ của ta với Chúa. Nói cách khác, giả như không có Thiên Chúa thì cũng không có tội đúng nghĩa, mà chỉ có những lỗi đi ngược lại các đòi hỏi luân lý, là những con đường giúp người ta làm cho mọi sự trở nên nhân bản.
Như vậy, phải coi tội như một sự xâm phạm tới quan hệ giữa Thiên Chúa và ta, một hành vi cản trở ta tiếp nhận chính Chúa như Người muốn dâng hiến cho ta được sống. Vì thế, tự bản chất tội là đối tượng của mạc khải, ít ra khi hiểu mạc khải theo nghĩa rộng. Như vậy, nếu ta chỉ biết Thiên Chúa trọn vẹn trong cội nguồn và chóp đỉnh của Mạc khải tức là trong Ngôi Lời nhập thể, thì hiển nhiên ta cũng chỉ biết tội đầy đủ khi nhận biết Đức Giêsu – Kitô. Rốt cuộc hiểu được mức trầm trọng của tội và nắm được sự thật về Đức Kitô là hai việc đi đôi với nhau. Nói đến tội là ta lập tức nhớ tới một Nhân vật khác, một phía khác ta tận gốc, một Thiên Chúa không thể định tên định tuổi, một Thiên Chúa ghen tỵ với mọi ngẫu tượng mà con người đặt lên thay Ngài.
Trong Cựu ước, người ta đã mau chóng nhìn tội qua một phạm trù rất căn bản, một phạm trù cho thấy rất rõ phía người bên kia: đó là phạm trù Giao ước. Theo Kinh thánh, phạm tội là không chịu trở về với Giao ước của Giavê, dù biết đó là nguồn hạnh phúc của nhân loại, và là hành vi tôn vinh Thiên Chúa rất đẹp. Có liên quan với một tha nhân (= nội dung của ý niệm tội), điều đó còn được Cựu ước diễn tả qua nhiều hình ảnh vay mượn ở nhưng kinh nghiệm của con người về sự thân mật gần gũi với người khác như kinh nghiệm cha con hay mẹ con và đặc biêt, kinh nghiệm vợ chồng.
Thử đọc một vài bản văn Kinh thánh: Is 64,7-8 mô tả tội là sự vô ơn của con đối với một người cha hằng ưu ái mình; Is 49,15 giới thiệu Thiên Chúa là một nhân vật có một tình yêu như của bà mẹ không thể nào quên đứa con mình đã mang nặng đẻ đau; Hs 2 trình bày tội là sự bất trung đối với tình yêu của một người chồng hết sức yêu thương. Như vậy, ngay từ trong Cựu ước, tội đã ám chỉ một sự xâm phạm tới quan hệ yêu thương giữa hai nhân vật có thể bị xúc phạm.
Dòng suy tư này sẽ được Tân ước lấy lại và khai triển. Trong Tân ước, rốt cuộc Thiên Chúa đã được gọi đích danh là Tình yêu. Nếu vậy, tội rõ ràng là sự xúc phạm đến Chúa, lang quân của Giáo hội, xúc phạm đến Thiên Chúa Tình yêu. Như thế, chỉ khi nhìn trong ánh sáng tình yêu (điều này, ta chỉ làm được do ơn Chúa Thánh Thần) ta mới thấy hết tầm mức của tội với những hậu quả xa nhất của nó. Tội đúng là đối tượng của mạc khải. Tuy vậy, có điều lạ là ta không bao giờ hiểu biết về tội một cách đầy đủ cả. Điều này có nghĩa gì?
B. Ta không bao giờ hiểu biết đầy đủ về tội
Một trong những vấn nạn làm các Kitô hữu bận tâm nhất là: làm sao biết mình đã phạm tội? Đây là một trong những điều nghịch lý lớn nhất trong thần học về tội. Thật vậy, tôi chỉ có thể là tội nhân khi tôi khước từ giao ước với Thiên Chúa, một cách tự do và sáng suốt; khi tôi cố tình và biết rõ mình đang đặt một ngẫu tượng thay thế Chúa. Thế nhưng, Truyền thống cũng luôn luôn khẳng định rằng hành vi tội lỗi nào cũng bị chi phối bởi một hay hai hình thức ngộ nhận về phía chủ thể phạm tội. Và đây chính là sự nghịch lý: một đàng tôi phải biết mình đang phạm tội thì mới gọi là có tội, nhưng đàng khác, tầm hiểu biết của tôi về tội thật giới hạn, không bao giờ đầy đủ cả. Ta hãy tìm hiểu hai hình thúc ngộ nhận và nghịch lý do chúng kéo theo.
a/ Ngộ nhận phần nào về những hậu quả do tội tôi mang lại và về tầm mức nặng nề khách quan của tội ấy
Như tôi vừa nói, tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa bằng cách xúc phạm đến tạo vật của Người. Vì thế theo logíc chỉ mình Thiên Chúa mới biết Người đã bị xúc phạm ở chỗ nào, thế nào và tới mức nào. Nói thế có nghĩa là anh em tôi và Thiên Chúa giữ một phần hiểu biết về tội của tôi.
Thử lấy một thí dụ để thấy rõ hơn những điều ta vừa nói. Giả sử trong khi thuyết trình, tôi muốn công kích một thính giả đang có mặt tại chỗ, bằng cách cố tình đưa ra một lời giễu cợt ác ý nhằm làm người ấy đau khổ; nhưng người ấy lại không chú ý lắng nghe tôi. Rõ ràng ở đây tôi đã phạm tội vì tôi đã cố tình làm khổ người khác. Thế nhưng, có thể lúc tôi buông lời chế giễu, đương sự không hề chú ý và vì thế rất ít cảm thấy bị xúc phạm. Ngược lại, nếu như lời giễu cợt ấy rơi đúng một vùng tâm lý hết sức nhạy cảm, đánh thức dậy những kinh nghiệm bị khiển trách đã từng xô đẩy và vùi dập người ấy hồi còn nhỏ, thì quả thật sẽ gây ra những thiệt hại đáng kể trong nhân cách của người ấy, một điều nằm ngoài dự đoán của tôi. Và như vậy, phần nào tôi đã không nắm hết tầm mức nghiêm trọng khách quan của hành vi tội lỗi mình vừa làm. Chỉ người bị xúc phạm bởi hành vi ấy mới có thể cho tôi biết mình đã bị thương tổn tới mức nào.
Như thế, nếu xúc phạm anh em tôi là đã xúc phạm đến Chúa, thì xét cho cùng chỉ Thiên Chúa, đấng bị ‘tổn thương’ trong kế hoạch yêu thương của mình, mới có thể biết đầy đủ về tội của tôi. Bởi vậy, Phaolô đã nói: ‘Chỉ có Chúa là đấng xét xử tôi’ (1Cr 4,4), dù Phaolô biết rằng ‘lương tâm tôi không khiển trách tôi điều gì’.
Chính vì thế, ta chỉ có thể hiểu hết tầm mức của tội qua trung gian của Giáo hội, nơi cưu mang Lời Chúa. Lời Chúa vốn là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi, xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người’ (Dt 4,12). Sau này chúng ta sẽ trở lại với vấn đề vai trò của Mạc khải trong việc khám phá ra tội. Tuy nhiên, ngay bây giờ ta có thể lưu ý là cộng đoàn Giáo hội cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc khám phá đó. Vai trò ấy thường được thể hiện qua hai chức năng tuy liên hệ với nhau chặt chẽ nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau:
- Chức năng ngôn sứ.
Chúng ta đã có một thí dụ khá rõ về chức năng này qua câu chuyện thời danh kể lại việc ngôn sứ Nathan dùng một dụ ngôn nhỏ để giúp Đavít nhận ra tội mình (2S 12). Tuy đã phạm tội nặng vì đẩy tình địch vào chỗ chết hầu có thể ngoại tình với vợ người ấy, nhưng Đavít không hề cảm thấy mình có tội. Phải nhờ đến lời lẽ của ngôn sứ Nathan, ông mới khám phá ra hết tầm mức nặng nề của tội mình đã phạm.
Các ngôn sứ phải luôn luôn phải thi hành chức năng cật vấn ấy trước đám dân Israen và các vua chúa đã chai lì trong tội. Ngày nay, giữa một xã hội có khuynh hướng lẫn lộn lòng từ tâm thương xót với việc cho phép dễ dãi, ta rất cần đọc lại một số đoạn Cựu ước đanh thép, như Ed 3,17-19 chẳng hạn, trong đó thiên Chúa bảo ngôn sứ Êdêkien: ‘Êdêkien, này Ta đặt ngươi làm kẻ trông coi Israen. Nếu ngươi không cảnh cáo người dữ từ bỏ tội ác, chính người dữ ấy sẽ chết, nhưng Ta sẽ đòi máu người ấy nơi ngươi’. Tất cả chúng ta hiện nay, do phép Rửa tội, đã được đặt làm người ‘trông coi’ cộng đoàn Kitô hữu và cộng đoàn nhân loại. Vì thế chúng ta có bổn phận thi hành chức năng ngôn sứ dưới một hình thức nào đó và phải là người loan báo Lời Chúa với tất cả những đòi hỏi của Lời ấy; một lời vừa kêu gọi mọi người quy tụ lại vừa thôi thúc người ta hoán cải. Dĩ nhiên, nếu không muốn gây hại hơn là làm phúc, ta phải loan báo Lời tiên tri ấy với một tâm hồn khiêm tốn và nhất là phải uyển chuyển trình bày tuỳ theo mỗi tình huống cụ thể. Nếu không, thay vì giải thích và thôi thúc người ta tìm về một tương lai mới, Lời ấy lại đè bẹp họ bằng không biết bao nhiêu là đòi hỏi vô phương thực hiện (cf. X. Thévenot, ‘L’aide non directive, une démission éthique?’, trong cuốn ‘Repères éthiques pour un monde nouveau’, Salvator, 1972, pp. 110-122).
- Việc sử sai huynh đệ (Lc 17,3; Mr 18,15-17).
Điều này đã được mô tả rõ ràng trong Tân ước: ‘Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy sửa chữa nó’. Bởi vì tội nào cũng xâm phạm tới Thân thể của Đức Kitô, tức là Giáo hội. Thế nên, cộng đoàn có quyền và có bổn phận phải cho các thành viên của mình biết những cung cách sống bị cho là tội lỗi của họ có thể đang cản trở Dân Chúa trong nỗ lực đón nhận Nước Trời. Ở đây, dĩ nhiên cũng phải suy nghĩ cẩm thận về cách sử sai huynh đệ, kẻo việc ấy làm tổn thương hay thậm chí làm hỏng cả những con người đó.. Một số người đã sa ngã vào những tội bất trung đối với các lời cam kết của mình rất có thể đã cải tà quy chánh, nếu trước đó họ gặp được một anh chị em giúp họ thấy rõ vấn đề hơn và ăn năn hối cải. Mỗi người chúng ta phải tự hỏi xem mình đã thực hiện việc sử sai huynh đệ thế nào và có bao giờ từ chối làm việc này không.
b/ Ngộ nhận về mức độ trách nhiệm của mình
Muốn hiểu tại sao phải nêu ra hình thức ngộ nhận thứ hai này, ta cần nhớ lại quan điểm rất trùng hợp với suy tư triết học hiện nay. Thật vậy, Kinh thánh phân biệt tâm hồn với những hành động của con người. Tâm hồn là nơi đưa ra những lựa chọn quyết đĩnh (Mr 22,37; 1Cr 7,37) và gặp gỡ Chúa (Mt 13,19). Tâm hồn hướng bên nào, điều đó được biểu lộ qua những hành động. Tuy nhiên, không có một hành động nào cũng như dù tổng cộng hết các hành động, ta cũng không thể diễn tả hết những gì chất chứa trong tâm hồn. Như thế, tâm hồn và hành động đi đôi với nhau, nhưng vẫn khác nhau và không thể đồng hoá cái này với cái kia một cách trọn vẹn.
Nói theo triết học hiện đại, tâm hồn là nơi để cho khả năng căn bản tự do của ta đưa ra sự lựa chọn tận căn theo hay chống lại Thiên Chúa, một sự lựa chọn lôi kéo con người chúng ta một cách toàn diện như một đơn vị thống nhất. Thế nhưng sự lựa chọn tận căn ấy chỉ được thể hiện ra ngoài qua những hành vi cá biệt, những hành vi này không thể nào diễn tả hết sự tự do lựa chọn căn bản của ta. Sự tự do trong tâm hồn con người đặt nền tảng cho các hành vi cá biệt, được diễn tả qua các hành vi đó, nhưng đồng thời cũng vượt lên trên những hành vi ấy.
Theo tôi, phân biệt tâm hồn với hành động như thế sẽ giúp ta hiểu sự phân biệt của Tân ước giữa tội và các tội. Chẳng hạn thánh Gioan hầu như luôn luôn nói đến tội ở số ít (hamartia). Thậm chí ngài còn quả quyết (1Ga 3,4): ‘Phạm tội tức là chống lại luật Chúa’ (anomia), nghĩa là kiêu ngạo khước từ Chúa, khước từ Thiên Chúa cứu độ mình. Còn Phaolô, phỏng theo các tác giả đương thời, ưa đưa ra danh sách các tội (1Cr 6,10). Thế nhưng, ngài cũng cho biết rằng tất cả những tội ấy đều là hậu quả của một tội duy nhất là cố tình từ chối không nhìn nhận Thiên Chúa Tạo hoá mà trên nguyên tắc, ai cũng có thể nhận ra (Rm 1,18-31 và 5,12-17). Phaolô còn nhấn mạnh tới chữ tội theo nghĩa này, đến nỗi coi đó như một sức mạnh đã được nhân cách hoá.
Khi tâm hồn ai đó đã bị sức mạnh của tội lỗi uốn nắn, hay nói cách khác qua sự lựa chọn căn bản của mình, người đó đã quay lưng với Thiên Chúa, thì Truyền thống Kitô giáo nói kẻ ấy đã phạm ‘tội nặng’. Đây cũng là trường hợp duy nhất đáng gọi là tội. Còn chữ tội trong kiểu nói ‘tội nhẹ’ đã được dùng theo nghĩa loại suy: đó là một sự tùng phục thánh ý Chúa nhưng chưa trọn vẹn hay là một sự dừng lại trên đường tiến về với Tạo hoá chứ chưa hẳn là đoạn tuyệt với Người. Đa số các Kitô hữu ngày nay cảm thấy khó chịu với kiểu nói ‘tội nặng’ hay ‘tội nguy tử’ (péché mortel), vì thế ta cũng nên suy nghĩ qua về kiểu nói này.
Theo ý tôi, nếu nói chuyện với những người có khả năng hiểu và tiếp nhận kiểu nói ấy một cách bình tĩnh, không lo lắng thái quá, thì có lẽ phải dùng kiểu nói ấy, vì hai lý do:
- một lý do rút ra từ Truyền thống. Đành rằng mấy chữ ‘tội nặng’, ‘tội nguy tử’, ‘tội nhẹ’ không có y nguyên như vậy trong Thánh kinh, nhưng trong Thánh kinh thật sự có phân biệt giữa hai loại tội. Chẳng hạn theo Phaolô, có những tội loại ta ra khỏi Nước Chúa (Gl 5,19tt; 1Cr 6,9tt). Cũng thế, thánh Gioan bảo rằng từ chối yêu thương là đã chấp nhận ở lại trong sự chết (1Ga 3,15). Còn Đức Giêsu thì phân biệt cái dằm với cái đà trong mắt người này, người kia. Nhân khi nói về việc thứ tha các lỗi phạm, Người cũng bảo phải cầu xin điều đó mỗi ngày như trong kinh ‘Lạy Cha’. Nếu vậy thì những lỗi phạm này hẳn không trầm trọng lắm! Còn Truyền thống phụng vụ, giáo phụ và thần học rất minh bạch: trái với một số quan điểm giáo lý lệch lạc, Truyền thống luôn khẳng định rằng không phải tội nào cũng giết chết quan hệ giữa ta với Thiên Chúa, nghĩa là có những tội không nặng bằng những tội khác, có những tội nhẹ.
- lý do thần học: tội là biểu hiện trong thực tế một năng lực giết chết. Như tôi đã nói nhiều lần, quan hệ giữa ta với Thiên Chúa bị giết chết, điều ấy luôn được biểu lộ qua sự tan vỡ trong các quan hệ của con người với nhau.
Rốt cuộc, phải chăng sở dĩ chúng ta từ chối không muốn dùng hai chữ tội nặng hay tội ‘nguy tử’, là vì chúng ta đang nô lệ một thứ ý thức hệ nổi bật trong xã hội ngày nay, đó là tìm cách che giấu sự chết? Một câu hỏi ít ra rất đáng cho ta suy nghĩ !
Sau khi suy nghĩ qua về vấn đề tội nặng, ta hãy trở lại với vấn đề của mình, đó là ta có nắm rõ tầm mức sâu xa của trách nhiệm mình đang phải chịu không. Như đã nói, về mặt này ta cũng luôn luôn ngộ nhận. Quả thế, tôi chỉ có thể biết những hành động bên ngoài của mình. Những hành động này lại là kết quả của cả hai thứ một trật: tự do của tôi và những hoàn cảnh sinh lý, xã hội đang chi phối tôi một cách sâu xa. Tôi không bao giờ hiểu được một cách chắc chắn tuyệt đối tâm hồn tôi đang hoàn toàn tiếp nhận và khước từ Nước Chúa. Vì tôi không tài nào phân biệt được một cách chính xác trăm phần trăm cái nào là do tôi đã tự do quyết định.
Nói như thế, tôi chỉ nhắc lại giáo lý rất cũ của Truyền thống mà thánh Tôma đã tóm tắt như sau: ‘Không ai biết được một cách chắc chắn mình đang sống trong ân sủng hay không’ (S. Th. Ia, IIae, 112,5) (cf. 1Cr 4,4). Công đồng Trentô cũng lấy lại giáo lý đó (Dz 1534. FC, 568): ‘Không ai có thể biết một cách chắc chắn không thể sai lầm rằng mình đã được ơn Chúa’. Một vị thánh lớn như Jeanne d’Arc cũng đã hiểu rõ điều đó nên mới trả lời cho những kẻ tố cáo mình: ‘Quý vị hỏi tôi có đang sống trong tình trạng ân sủng không à? Tôi xin thưa: nếu có thì xin Chúa tha cho tội kiêu ngạo của tôi, nếu không thì xin Chúa hãy cho tôi được như vậy’.
Như vậy, muốn phê phán tội ta nặng nhẹ tới mức nào, ta đành phải có lời giải thích về những hành vi cá biệt của mình. Những hành vi này sẽ được coi là những dấu hiệu ám chỉ tình trạng của tâm hồn ta. Thánh Tôma đã không ngần ngại dùng từ ngữ ‘ức đoán’ để chỉ sự hiểu biết của ta về tội lỗi. Ngài nói: ‘một người có thể nghĩ rằng mình đang sống trong ân sủng khi thấy mình đang tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa’.
Nếu như vậy, đi vào cụ thể, làm sao đánh giá mức nặng nhẹ của tội mình đây? Trước khi đưa ra vài dấu chỉ cho biết mình đang mắc tội, theo tôi vài điểm mốc sau đây có thể giúp ta làm việc này:
Nếu những hành vi tội lỗi tôi đã làm là những hành vi tự nó hay theo khách quan là nặng hay nếu đó là những hành vi hình như tôi đã làm với khá nhiều tự do, thì rất có thể tâm hồn tôi lúc đó đã xa cách Chúa nhiều hay, như các sách giáo lý ngày xưa thường nói, tôi đã không còn ’sống trong tình trạng ân sủng’ nữa. Trong những trường hợp đó tôi biết chắc (sự chắc chắn theo luân lý) mình đã phạm tội nặng, đã phạm tội ‘chết được’, mình đã ao ước và đã thật sự giết chết quan hệ của mình với Chúa.
Ngược lại, một Kitô hữu cảm thấy ‘mũi nhọn của ý chí mình’ – một kiểu nói của các nhà tu đức – vẫn cắm sâu nơi Thiên Chúa; nói cách khác, một Kitô hữu cảm thấy cuộc sống của mình, xét trong toàn bộ, xét trong sư lựa chọn căn bản, vẫn phù hợp với Tin mừng; những Kitô hữu ấy có quyền tự hỏi phải chăng những ‘sa ngã’ thường xuyên của mình về một điểm nhất định nào đó (một điểm mình tỏ ra yếu đuối thật sự) đã là những lời từ chối tình yêu Thiên Chúa một cách nghiêm trọng. Trong những trường hợp này, họ có thể tin chắc (chắc chắn theo luân lý) rằng những sa ngã ấy chỉ là những khuyết điểm, chứ không là tội đúng nghĩa, vì xét cho cùng trong những hành vi đó sự tự do sâu xa của họ chưa tham gia thật. Quả thế, không dễ gì lúc nào cũng phạm tội ‘đáng chết’, bởi vì tình yêu Thiên Chúa luôn ‘làm việc’ nơi những người vẫn giữ được sự chọn lựa căn bản tốt đẹp của mình. Vì thế, theo tôi, cuộc đời của những Kitô hữu biết cầu nguyện, liên kết với Giáo hội và vẫn nỗ lực sống yêu thương có lẽ có rất ít tội nặng. Tuy nhiên, tôi xin lưu ý hai điểm:
a/ Lưu ý thứ nhất dựa vào một đoạn trích trong văn kiện ‘Persona humana’ của Toà thánh đề cập tới khoa đạo đức tính dục (số 10), ban hành năm 1976. Văn kiện này đã có lý khi nhắc lại rằng dù ‘sự lựa chọn căn bản xét cho cùng mới là cái xác định tình trạng luân lý của một người, nhưng sự lựa chọn căn bản ấy có thể bị thay đổi hoàn toàn do những hành vi cá biệt; và thông thường sự viêc ấy được chuẩn bị trước bằng những hành vi hời hợt hơn. Dù sao, đừng cho rằng một hành vi cá biệt thôi không đủ để phạm tội nặng. Vì thế, theo văn kiện này, ‘người ta phạm tội nặng không phải chỉ khi nào hành vi của mình xuất phát từ lòng khinh bỉ trực tiếp đối với Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, mà cả khi vì một lý do nào đó người ta cố tình và tự nguyện lựa chọn một điều đã lệch lạc và sai hỏng nặng nề’. Như vậy bản văn này nhắc ta nhớ rằng có những hành vi quan trọng (có thể xác định ngày tháng dễ dàng) tới mức liên hệ sâu xa tới sự lựa chọn căn bản của ta và báo hiệu sự lựa chọn của ta đã bị thay đổi.
b/ Điểm thứ hai cần nhớ là ta không bao giờ đoạn tuyệt với Thiên Chúa cũng như giao hảo thân mật với Thiên Chúa một lần là xong.
Về điều này, nên nhớ lại một lời Cựu ước: ‘Nếu người công chính bỏ sự công chính của mình mà làm điều ác (…), người ta sẽ không còn nhớ tất cả những sự công chính kẻ ấy đã thực hành nữa’ (Ed 18,24). Ngược lại, ‘nếu người gian ác từ bỏ tất cả những tội mình đã phạm (…), nó sẽ không phải chết’.
Khi khẳng định con người không bao giờ đoạt được cả điều tốt lẫn điều xấu một lần vĩnh viễn, những câu Kinh thánh ấy đã bảo vệ ta khỏi thái độ Pharisêu và tham vọng muốn trở thành kẻ vạn năng về tội ác. Lời Chúa đã đánh tan tận gốc mọi toan tính kiêu ngạo muốn mình được hoàn thiện ngay tức khắc (như Thiên Chúa) hay được xấu xa ngay lập tức (như ma quỷ). Phải, ta luôn luôn có khả năng phạm tội và hoán cải; đó là một lời nhắc nhở rất hay về thân phận hữu hạn của ta!
Để kết luận, vì hai sự hiểu lầm trên đây có ảnh hưởng đến tội lỗi của chúng ta, nên ta thường thấy thật không thoả đáng lắm khi đòi dò xét cho tới cùng trách nhiệm của con người trong tội. Đôi khi việc dò xét này cũng có lợi cho những người phạm tội: nó giúp những người ấy phân tích kỹ lưỡng hơn những động cơ đã dẫn họ tới chỗ phạm tội, nhất là giúp họ dám chịu trách nhiệm chính bản thân mình hay anh em mình. Nhưng thông thường hơn, công việc dò xét ấy, sự nhận định phê phán về tầm mức tội lỗi của một hành vi phản ảnh thái độ tự ái của đương sự: đương sự tìm cách tự hào trong tình trạng khốn nạn và hèn hạ của mình, hay thậm chí tìm cách bào chữa cho mình trước mặt Chúa. Đàng khác, thái độ ấy gián tiếp cho thấy đương sự nhìn Thiên Chúa thế nào? Đó là một Thiên Chúa rất giống với Thiên Chúa của Cain hay của các thẩm phán tại các phiên toà, tìm đủ cách để vạch ra trách nhiệm của con người hầu áp dụng các hình phạt đã được tiên liệu trước trong các bộ luật hình sự!
Trong Tin mừng, đọc lại những lần Đức Giêsu gặp gỡ các tội nhân và tha thứ cho họ, ta thấy rõ Đức Giêsu dường như không bận tâm lắm tới việc xưng thú chi tiết tội lỗi. Chẳng hạn khi tha tội cho người bại liệt hay cho người đàn bà ngoại tình, hoặc cho một phụ nữ tội lỗi đến lấy dầu thơm xức chân Chúa. Đối với Người, điều quan trọng không phải là kể lể chi tiết các tội, mà là tâm hồn của tội nhân có nhận ra Người là Đấng thương yêu, Đấng có thể giải thoát ta nhờ tình thương của Người không.
|
|