Dâng hiến cho đến tận cùng (?)

-----------Bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng phục sinh, Người mặc khải cho chúng ta một điều gì thuộc căn tính đặc biệt của Người ngay trong phong cách (modalité) chết của Người. Người là kẻ "vốn dĩ là Thiên Chúa nhưng đã trở nên giống phàm nhân" (Pl 2,6) và chấp nhận lãnh cái chết của mình từ tay con người. Trong sự chấp nhận bị đóng đinh này, người ta thấy để lộ ra nội tâm (intériorité) của kẻ chịu đóng đinh. Người không coi việc từ bỏ địa vị thần linh của mình là đủ (tức là khước từ tất cả những gì trong việc mặc khải thần tính có thể là một ngăn trở để kết hiệp với nhân tính), Người không cho việc mặc lấy điều kiện nhân loại đến nỗi chấp nhận sự kết thúc cuối cùng bằng cái chết là đủ, nhưng Người, Ðức Chúa vinh hiển (1 Cr 2,8) sẽ để mình bị đóng đinh vào thập giá như một kẻ rốt hết trong các nô lệ chịu án tử.

-----------Khi nhấn mạnh đến phong cách chết "và chết trên thập giá", (Pl 2, 8) nêu lên tính cách đặc thù của cái chết đó; cái chết này là một cái chết ô nhục người Con nhận lãnh vì tình yêu đối với Cha của Người và đối với chúng ta. Như vậy cái chết đó là cái chết hiến dâng (mort doblativité) nhờ đó tỏ bày tình yêu của Con đối với Cha và đối với chúng ta. Ðức Giêsu chấp nhận làm một người bị chúc dữ (trước mắt những người Do Thái), làm một kẻ ngu dại (trước mắt những người Rôma), đang khi Người là kẻ được Thiên Chúa chúc phúc, là đấng Mêsia, là người Con, kẻ cho ta hưởng muôn vàn ân phúc (Ep 1,3). Khi dùng cái chết trên thập giá để mặc khải một sự dâng hiến đi tới chỗ tột cùng của nhục nhã và đau khổ, Người lật đổ mọi tiên thức (précompréhension) về Thiên Chúa và về con người.

-----------Hơn nữa, qua nội tâm của Người hoàn toàn phó dâng, Người hoà giải mỗi người và mọi người không trừ ai với Thiên Chúa và với nhau. Người cũng hoà giải các hữu thể trên trái đất và trên trời. Ðấng đã hoà giải tất cả là Ðấng đã dựng nên tất cả: lịch sử gởi trả chúng ta về nguồn cội, về cuộc sáng tạo. Biến cố thập giá có một tầm mức vũ trụ: tất cả tạo thành đều được hành động của Ðức Kitô trên thập giá đụng chạm đến. Như vậy không chỉ có một sự đi xuống của Thiên Chúa với nhân loại, nhưng cũng có một sự đi lên trong đó Ðức Kitô cho chúng ta tham dự từ bên trong vào cuộc đi lên của Người với Cha.


Tình yêu của Cha được tỏ bày

-----------Gương mặt của Thiên Chúa cũng được mặc khải nơi đấng bị đóng đinh. Thực vậy, vị Thiên Chúa tỏ mình ra không phải là Thiên Chúa của giận dữ, nhưng là Ðấng dấn thân trong thân phận con người đến nỗi chấp nhận cái chết, chết trong người Con của Người. Thiên Chúa đã chọn đi qua con đường thập giá và lệ thuộc vào lịch sử thế giới để tỏ mình ra (1 Cr 1,21). Thập giá được trồng rất cụ thể và vững chắc trên mặt đất. Ðó là một nơi tỏ bày sự dâng hiến của Con mà cũng là của Cha. Do đó thập giá là một cuộc thần hiển (théophanie) thực sự với tất cả mức độ Con làm hiển thị tình yêu của Cha,tình yêu được tỏ bày nhờ hy tế Cha thực hiện nơi Con.

-----------Ðặc tính lạ lùng này trong ý định của Thiên Chúa chỉ có thể hiểu được trong biến cố thập giá nhờ ánh sáng phục sinh. Không những thập giá nói lên sự hoàn tất của Kinh Thánh mà còn mặc khải ý nghĩa của Kinh Thánh. Thập giá chẳng là chữ "tau" đó hay sao, mà chữ "tau" là chữ cuối cùng trong bảng chữ cái Do thái và như vậy cũng là kết thúc của nó? Tất cả đã được nói ra, tất cả mọi lời tiên tri về lòng thương xót của Thiên Chúa đã được ứng nghiệm. Chắc chắn, sự ứng nghiệm được thực hiện cách bất ngờ. Nhưng khía cạnh này rất thường bị xem nhẹ và những khẳng định liên quan đến sự giận dữ, món nợ, sự công chính hoá đã trở nên quan trọng đến mức chúng đã che khuất mất ý định lạ lùng của Thiên Chúa, cho dù Phaolô đã nói rõ điều này bằng cách sử dụng từ ngữ "mầu nhiệm". Ngôn ngữ của thập giá mặc khải cách độc đáo và đặc biệt sự hy sinh của Con và của Cha. Mọi kitô hữu đều được mời gọi thể hiện hai sắc thái này trong cuộc sống của mình.


Loan báo đấng chịu đóng đinh

-----------Người tín hữu là người tiếp nhận lời loan báo về đấng chịu đóng đinh, chấp nhận và làm chứng cho sự việc này. Phaolô tuyên bố ngài "không muốn biết gì khác ngoài Ðức Giêsu Kitô bị đóng đinh" và ngài lãnh trách nhiệm đi loan báo trước cả việc ban phép rửa tội (1 Cr 1,17). Một sự loan báo như thế phải không ngừng được đổi mới bởi vì nó có nguy cơ bị lãng quên, có khi bị loại bỏ nữa. Tín hữu Corintô không chia rẽ sao khi công bố mình thuộc về người này hay người khác trong số các thủ lãnh của mình (1 Cr 1,10-16) và tín hữu Galát đã chẳng chạy theo một Tin Mừng thứ hai sao, cho dù họ "thấy hình ảnh Ðức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt" (Gl 1,6; 3,1)?

-----------Ðiều thập giá nhắc nhở thì thuộc phạm vi kinh nghiệm chứ không thuộc trật tự suy tư hay ý thức hệ. Niềm tin vào Ðức Kitô đi ngang qua việc chấp nhận cuộc Vượt Qua của Người và sẽ luôn là chướng kỳ và điên rồ cho tất cả các nền văn hoá cũng như niềm tin ấy đã là chướng kỳ và điên rồ cho thế giới Hy Lạp vì một nền tảng như thế thật bất lực và phi lý. Khía cạnh gai chướng của ý định Thiên Chúa là yếu tố cơ bản trong việc đưa thập giá vào lịch sử. Nếu thập giá chỉ có ý nghĩa bởi vì đấng chịu đóng đinh thập giá là đấng đã sống lại, - vì không có sự sống lại Ðức Giêsu chỉ là một kẻ chết treo được ghi vào danh sách hàng ngàn người đã bị đóng đinh trong thời Cổ đại -, thì theo sự khôn ngoan của thế gian, thập giá vẫn là khổ hình mà một Thiên Chúa thánh thiện không thể nào phải chịu. Khía cạnh này của lời loan báo là tuyệt đối đến mức tạo thành động lực cho mọi việc truyền giáo: "Ðức Kitô đãchẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng" (1 Cr 17). Nội dung của việc truyền giáo nằm nơi ngôn ngữ của thập giá; ngôn ngữ này hoàn toàn tùy thuộc vào Ðức Giêsu Kitô trong khía cạnh khách quan và ý nghĩa của việc Người mặc khải.