|
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh Mục và Tu sĩ
Lời Chúa: Cv 2,14a.36-41; 1Pr 20b-25; Ga 10,1-10 MỤC LỤC
1. Mục tử & Cửa chuồng chiên
2. Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Tôi đến để chiên được sống
4. Chúa Chiên Lành – R. Veritas
5. Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên – Lm Trần Ngà
6. Nhân loại chỉ có một Đức Kitô – Achille Degeest
7. Thiên Chúa chọn để loan báo Tin Mừng – R. Veritas
8. Chủ chăn
9. Chúa chiên nhân lành
10. Mục tử nhân lành - JNK
SUY NIỆM
1. Mục tử & Cửa chuồng chiên
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất đó là người mục tử.
Trong Cựu Ước, dân Do Thái thường dành tước hiêu này cho Thiên Chúa. Ngài chính là người mục tử, đã dẫn dắt họ qua sa mạc, qua biển Đỏ để tiến vào miền đất hứa. Ngài đã chăm sóc, dưỡng nuôi họ bằng manna, bằng chim cút, bằng suối nước vọt lên từ tảng đá. Như người mục tử gắn liền số mạng với đoàn chiên, thì Thiên Chúa cũng và đã luôn ở giữa dân Ngài để chia sẻ những buồn vui gian khổ với họ dưới sương sớm và nắng chiều.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng đã tự sánh ví mình như người mục tử nhân lành. Khác với những kẻ chăn thuê và giữ mướn, những kẻ trộm cướp và lợi dụng, người mục tử đích thực chỉ biết phục vụ đoàn chiên và giải thoát đoàn chiên khỏi mọi sự dữ. Đổi lại, con chiên nghe tiếng người mục tử, hăm hở đi theo và tỏ lòng yêu mến quyến luyến với người mục tử. Người ấy sẽ đi trước để bảo vệ đoàn chiên. Còn đoàn chiên thì theo sau một cách ngoan ngoãn, để rồi cuối cùng sẽ đến được nơi đồng cỏ xanh và nơi dòng suối mát. Chính Ngài đã phán: Ta đến để chúng được sống và được sống một cách dồi dào. Thực hiện mục đích ấy, Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt, bằng chính mạng sống của mình.
Hình ảnh thứ hai, đó là hình ảnh của chuồng chiên. Mỗi khi tổ chức Năm Thánh, thì trong ngày khai mạc và bế mạc, Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự một nghi lễ đặc biệt, đó là đóng và mở một cánh cửa lớn nằm bên phải đền thờ thánh Phêrô. Nghi lễ ấy có nền tảng trong Kinh Thánh tượng trưng cho ơn thánh đổ xuống nhân loại, cho cuộc trở về toàn thắng của đức vua, cho nơi gặp gỡ của sự bình an và hiệp nhất.
Với lời khẳng định: Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào thì được cứu rỗi, người ấy sẽ tìm thấy của nuôi thân, Chúa Giêsu muốn nói lên rằng: Nơi Ngài, chúng ta sẽ gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Nơi Ngài, chúng ta được cứu rỗi và tìm thấy niềm hạnh phúc Nước Trời.
Còn chúng ta thì sao? Hãy đến với Đức Kitô và bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài, như lời Thánh Phaolô đã diễn tả: xưa kia anh em là những con chiên lạc, giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẩu chuyện sau đây: Trời mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm thấy ấm hẳn lên.
Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
2. Cửa chuồng chiên – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.
Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận.
Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.
Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu phục sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.
Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống
Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không?
Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.
Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.
Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.
Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.
Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.
Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.
Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên. Tôi có theo vào cửa Người hay tôi đã chọn nhầm cửa khác?
2) Chúa Giêsu là cánh cửa mở. Tôi có thường đóng cửa, ngăn không cho người khác vào?
3) Chúa Giêsu đã hiến mạng sống để mở cửa cho tôi. Tôi có sẵn sàng hi sinh để mở cửa thêm rộng không?
3. Tôi đến để chiên được sống
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường ví mình với điều cụ thể: "Tôi là bánh, là Ánh Sáng, là Đường...”. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài ví mình như Mục tử.
Người mục tử chân chính đi qua cửa mà vào chuồng chiên. Anh gọi chiên của anh bằng một tiếng gọi riêng, chiên nhận ra tiếng của anh và đi theo.
Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng. Chiên không theo anh ta, nhưng sợ hãi chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Đức Giêsu gọi những mục tử giả hiệu là trộm cướp. Họ chỉ đến để giết hại và phá hủy đàn chiên.
Còn Ngài đến để chiên được sống, và sống dồi dào. Giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết: "Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi." Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
Giáo Hội muốn đặc biệt dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh, để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Đây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Nhiều nơi trên thế giới đang thiếu linh mục trầm trọng, nhiều nhà thờ phải giao cho giáo dân coi sóc. Cũng có những dòng tu phải đóng cửa cơ sở của mình vì không có lớp người trẻ kế tục.
Giáo Hội hôm nay cũng như mai ngày vẫn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi.
Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được những thực tại vô hình, và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý.
Được làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa. Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng, nhưng một số người được mời gọi đặc biệt để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa và bắt chước Đức Giêsu tận căn hơn.
Chúng ta băn khoăn trước câu hỏi tại sao Giáo Hội hôm nay thiếu ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Vì đời tu không hấp dẫn người trẻ? Vì bầu khí của thời đại: thực dụng, hưởng thụ, Mất cảm thức về đức tin, xa lạ với Thiên Chúa? Hay vì chúng ta chưa có can đảm để cổ võ ơn gọi?
Trong sứ điệp năm 1996 về ơn gọi, Đức Thánh Cha đã nhắc đến việc phải chăm lo cho mảnh đất nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm và lớn lên. Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo phận và giáo xứ. Ngài đã phác họa những nét chính của cộng đoàn này như sau:
Một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa. Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh, người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ sâu thẳm của con tim mình.
Một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa. Chỉ trong bầu khí trầm lặng của cầu nguyện, người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân.
Một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ, khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa. Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết.
Một cộng đoàn quan tâm phục vụ người nghèo, chọn đứng về phía những người khổ đau, túng thiếu. Cộng đoàn này sẽ sản sinh những bạn trẻ biết phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô điều kiện.
Như thế ơn gọi chỉ nảy nở từ vùng đất màu mỡ. Nó là hoa trái của một Giáo Hội đầy sức sống.
Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi. Nhiều ơn gọi sẽ làm cho Giáo Hội mạnh hơn.
Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại, không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả.
Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Đức Giêsu, say mê con người Ngài, và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới.
Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu của bao người đói khát chân lý và công lý, giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương.
Giới trẻ cần những người thầy, người bạn dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ.
Giáo Hội thiếu ơn gọi là do lỗi của mỗi người chúng ta. Cần phải cầu nguyện và cũng cần phải canh tân cuộc sống. |
|