|
BA TẤM LÒNG VÀNG
Thầy Phê-rô Vũ Truật, 21 tuổi, đáng lưu danh muôm thuở do câu nói bất hủ, trả lời những viên quan chê mình dại dột lãng phí tuổi xuân:
'' Chưa chắc là tôi dại. Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phân gia nghiệp muôm đời''.
Phê-rô Vũ Truật sinh năm 1817 ở làng Hà Thạch, họ Kẻ Thiếc, huyện Sơn Vy, trấn Sơn Tây. Gia đình anh rất nghèo, cha chết sớm, vốn liếng lại chẳng có, mẹ anh phải đầu tắt mặt tối suốt ngày, để nuôi ba con dại, nên Phê-rô Truật không được đi học và gầy yếu xanh xao.
Tuy nhiên, anh Truật có lòng đạo đức, thường lui tới nhà thờ kĩnh lễ, nên được cha xứ Bầu Nọ chọn làm phục vụ những việc nhẹ nhành trong xứ và tạo điều kiện cho ăn học. Dầu thế mặc lòng, anh Truật cũng chẳng bằng ai, phần trí khôn hơi chậm, phần hay bị đau ốm luôn, anh chỉ có thể biết đọc biết viết sơ sơ. Bù lại, anh rất thuộc kinh, nên được trách vuệc hạy kinh truyền khẩu cho các thiếu nhi nhỏ tuổi.
Mãi đến khi bị bắt giam trong tù rồi. Đức Cha Ha-va Du mới chứng nhận anh là thầy giảng, để tỏ lòng chứng cho đức tin. Thầy Truật tuy không có cơ hội giảng bẳng lời nói, nhưng thái độ kiên tin của thầy là lời giảng có sức thuyết phục hơn nhiều.
Ở Bầu Nọ có người ngoại giáo tên là Đức cầm đầu một băng cứơp đã bị bắt. Để nhẹ tội, y nói với vợ là Yến vu oan cho cha Cốt-nây Tâm tội tổ chức phản loạn. Chị ta giả vờ đến xin học đạo để dò xét những nơi cha thường trú ẩn. Khi được biết, chi ta liền dấu vũ khí trong vườn nha cha , rồi đi mật báo cho các quan tỉnh Sơn Tây.
Ngày 20/6/1837, quan Sơn Tây phái 1.500 quân lính đến làng Bầu Nọ, bắt vị đạo trưởng Tân. Hai thầy Mỹ va Đường , cũng như anh Truật ngồi lẫn vào đám đông dân chúng tập trung nơi đình làng. Lĩnh lục soát từ sáng đến trưa vẫn không thấy cha Tân đâu cả. Bà Yến liền bày cho họ cách bắt anh Truật và hai thầy Mỹ và Đường là những ngưởi thân thiết với cha xứ để tra hỏi.
Chiều hôm đó, lính phát hiện được cha đang ẩn trong bụi rậm. Nhưng để có nhân chứng khép tội cha, ba vị phụ ta cũng bị áp giải cùng cha hơn sáu dặm đường về nhà lang tỉnh Sơn Tây. Tại công đường, ba vị khéo lèo chứng minh cha không theo giặc và giải thích những lới đồn đại nói sai vầ đạo. Thí dụ quan hỏi: ''Sao các ông móc mắt người chết để luyện phép?''; Thầy Mỹ trả lời: ''Không lẻ quan tin những lời đồn vô lý đó sao? Bởi vì chúng tôi làm như thế, cha mẹ vợ con họ có để chúng tôi yên. Vậy mà chúng tôi vẫn ra vào nhà họ, gặp ghỡ thân ái và vui vẻ''.
Các cuộc thẩm vấn thường đi với những tra tấn dã man. Đây là chứng thư của thầy Mỹ:
'' Lính lột áo chúng tôi ra, bắt chúng tôi nằm xuống, lấy giây thừng cột tay chân, rồi kéo căng, cột vào bốn cọc ở bốn phía, nguyên sự căng móc như thế đủ làm chúng tôi đau đớn vô cùng. Thế rồi họ bắt đầu đánh đon... Cuối cùng họ không đánh bằng một chiếc roi nửa, mà là cả bó. Môi lần đánh, hàng trăm đầu roi in trên da thịt chúng tôi, tạo ra nhiều viết thương đẫm máu...''.
Riêng thầy Truật bị ốm yếu nân đươc đeo gông nhẹ hơn và bị ít đòn hơn. Nhưng sau mỗi kỳ tra tấn, cả bà ngưởi đều kiệt sức, phải khiêng vào ngục thấp. Ngày 20/ 9, lính canh tù đã loan tin cha Tân đã bị trảm quyết và khuyên các thầy bỏ đạo, cả ba cùng nói: '' Chúng tôi mừng vì thấy chúng tôi được tử đạo, chúng tôi nguyện theo gương ngài''.
Giai đoạn này thầy Mỹ ghi lại trong một lá thư: '' Suốt bốn tháng liền, chúng tôi bị gông cùm xiềng xích, chịu lính canh ngục ngựơc đãi, phòng giam ẩm thấp hôi hám, ruồi muối tự do hoành hành mà trên người thì đầy vết thương tra tấn...''.
Tháng 10, bản án tỉnh Sơn Tây tâu vua Minh Mạng được chuẩn phế gửi về. Nhưng thay vì giết ngay, bản án quyết định ''giam hậu'', tức là khoan xử quyết định trờ xử mới, bề ngoài bản án có vẻ nhân đạo, nhưng thật ra bên trong thâm độc: Với thời gian, nhiệt tình đâu có nguy cơ phai nhạt, vì tử tội luôn bị ám ảnh không biết phải ngồi tù đến bao giờ. Đằng khác sự chịu đựng của con người có hạn, quá khồ đau, quá mòm mỏi, quá thất vọng, con người dễ bị lung lạc và thay đổi ý định. Thực tế ba thầy giảng phải trờ 14 tháng, vị chi tất cả là một năm rưỡi bị giam cầm. Nhung6 xuốt thời gian giam cầm thử thách lau dài ấy, ba thầy vẫn gắn bó với nhau trong nhẫn nại, can đảm và giữ mãi, khát vọng tử đạo, mỗi sáng cũng như mỗi tối, các thấy lớn tiếng đọc kinh Mâm Côi chung, đồ ăn thức uống, thuốc mem nhận được, ba vị chia cho lính canh ngục những ai đến thăm cũng được khuyên nhủ:'' Anh em hãy sống hòa thuận với mọi nguòi trong gia đình, làng nứơc, hay giáo hữu nhiệt thành, vì đời sống trần gian chẳng là bao. Chúng tôi đã vâng theo ý Chúa định đoạt, hy vọng mai này chúng tôi đã đoàn tụ trên trời''.
Cha Triệu giả làm thường dân mang Mình Thánh Chúa cha các thầy được bốn lần. Đối với các thầy, đó quả là hồng phúc lớn lao. Chúng ta đọc tam sư của thấy Đường gửi cho cha Ma-rét trong thư:
'' Hôm nay là ngày trọng đại, chúng con được rước Mình Thánh Chúa. Xin tạ ơn Chúa đã viếng thăm làm nhẹ đi xiềng xích của chúng con... Cửa thiên đàng đã gần kề, nghỉ đến hạnh phúc đang trờ đợi, chúng con chẳng còn ứơc ao sự gì khác nửa...''
Năm 1838 triều đình lại duyệt bản án và chỉ thị cho quân tỉnh Sơn Tây thi hành, ngày 18/12 ba chứng nhân anh dũng được điều ra pháp trường ở Gò Vôi, làng Mông Phụ, tỉnh Sơn Tây. Mỗi người mang trên ngực tấm thẻ ghi tên, họ, nguyên, quán và tội theo đạo Ga-Tô, đã thú nhận, truyền xử giảo, trên đường đến nơi hành quyết, như đã hẹn trước, ba thầy cùng làm dấu khi thấy cha Triệu đứng giữa dân chúng ban phép lành tha tội. Một người lính cho các ngài uống riệu, ba vị cảm ơn, chỉ xin uống nước trà và nói:'' Thầy giảng chúng tôi kiêng riệu như kiêng sắc dục và kiêng phản bội ''.
Đến nơi xử, ba thầy nằm dài trên chiếu, quân lính quây thành vòng tròn lớn, để ngăn cản dân chúng. Từng vị một bị trói chân và treo hai tay ra sau lưng. Dây thừng tron sẵn vào cổ. Giữa triêng trống vang lên, theo lệnh quan, lý hình mỗi bên nắm chặt đầu giây xiết thật căng, chờ tới khi tất cả tắt thở. Máu ứa ra ngoài miệng. Sau đó họ lấy lửa đốt gan bàn chân để sác nhận các tử tội đã chết thật rồi. Cha Ma-rét đưa thi hài ba thầy về họ Kẻ Măng gần đầy tẩm liệm. Ngài dâng lễ câu hồn tạ ơn Chúa đã cho bậc tôi chung thắng trận hải hoàn. |
|