|
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
ĐẠO ĐỨC TRONG INTERNET
3. Cũng như đối với các phương tiện truyền thông khác, con người và cộng đồng luôn là tâm điểm để ta nhìn vào mà đánh giá Internet về mặt đạo đức. Đối với thông điệp được truyền đi, quá trình truyền thông, cơ chế và các vấn đề liên quan đến hệ thống truyền thông, “nguyên tắc đạo đức căn bản vẫn là: con người và cộng đồng con người chính là mục tiêu và thước đo việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; việc truyền thông nên diễn ra từ người này sang người nọ để phát triển toàn diện con người”
Công ích - hay “tổng số các điều kiện xã hội giúp con người, tập thể hay cá nhân, đạt được sự phát triển mỹ mãn và dễ dàng hơn” - chính là nguyên tắc căn bản thứ hai để đánh giá việc truyền thông xã hội về mặt đạo đức. Nguyên tắc ấy nên được hiểu ngầm như một nguyên tắc tóm tắt tất cả những mục tiêu chính đáng mà các thành viên trong cộng đồng đã cùng nhau cam kết thi hành, và cộng đồng này tồn tại chính là để thực hiện, duy trì các mục tiêu ấy. Lợi ích của các cá nhân tuỳ thuộc lợi ích chung của các cộng đồng mà các cá nhân ấy thuộc về.
Đức tính giúp con người bảo vệ và phát huy công ích chính là tình liên đới. Đó không phải là thứ tình cảm “thương hại mơ hồ hay đau buồn nông cạn” trước những trục trặc của người khác, nhưng là “một sự quyết tâm kiên định và bền bỉ dấn thân đi tìm công ích, tức là dấn thân đi tìm điều tốt cho mọi người và mỗi người, vì tất cả chúng ta thật sự đều có trách nhiệm với tất cả mọi người” Ngày nay, tình liên đới mang chiều kích quốc tế mạnh mẽ và rõ ràng; nói tới ích chung của thế giới là điều đúng, và làm việc cho ích chung của thế giới là điều bắt buộc.
4. Ích chung của thế giới, đức tính liên đới, cuộc cách mạng trong các phương tiện truyền thông và trong công nghệ thông tin cũng như Internet, tất cả đều nằm trong tiến trình toàn cầu hoá.
Trên một bình diện rộng lớn, công nghệ mới này đang thúc đẩy và hỗ trợ việc toàn cầu hoá, tạo ra một tình huống trong đó “thương mại và truyền thông không còn bị trói buộc bởi các ranh giới nữa”. Điều này để lại nhiều hậu quả vô cùng quan trọng. Toàn cầu hoá có thể làm gia tăng của cải và hỗ trợ sự phát triển; nó đem lại những lợi ích như “sản xuất có hiệu quả và gia tăng… các dân tộc đoàn kết với nhau hơn… phục vụ cho gia đình nhân loại tốt hơn”. Chỉ tiếc là những lợi ích ấy cho đến nay chưa được san sẻ cách đồng đều. Một số cá nhân, một số công ty thương mại và một số quốc gia đã giàu lên đáng kể, nhưng nhiều cá nhân, công ty và quốc gia khác bị tụt lại phía sau. Thậm chí toàn bộ nhiều quốc gia bị khai trừ gần như hoàn toàn khỏi tiến trình này, không có lấy một chỗ đứng trong cái thế giới mới đang hình thành ấy. “Toàn cầu hoá đã làm thay đổi sâu xa các hệ thống kinh tế bằng cách tạo ra những khả năng phát triển hết sức ngỡ ngàng, nhưng cũng dẫn tới kết quả là nhiều người bị gạt ra bên lề: như tình trạng thất nghiệp tại các nước đã phát triển và tình trạng cực kỳ nghèo túng tại rất nhiều nước ở Nam bán cầu đã tiếp tục làm cho hàng triệu người bị tụt lại đằng sau, không được hưởng sự tiến bộ và thịnh vượng”.
Rõ ràng là ngay cả các xã hội đã tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá cũng phải chấp nhận tiến trình ấy như một điều phải tự nguyện lựa chọn. Ngược lại, “nhiều người, nhất là những người bị thiệt thòi, coi tiến trình ấy như một điều áp đặt trên mình, hơn là như một tiến trình mà mình có thể tích cực tham gia”
Tại nhiều nơi trên thế giới, tiến trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy xã hội thay đổi nhanh chóng và toàn diện. Đây không chỉ là một tiến trình kinh tế, mà là một tiến trình văn hoá có những mặt tích cực mà cũng có những mặt tiêu cực. “Những ai bị lệ thuộc vào tiến trình này đều coi toàn cầu hoá là dòng thác lũ có sức công phá đe doạ tới các chuẩn mực xã hội xưa nay vẫn bảo vệ họ, cũng như đe doạ tới các điểm tham chiếu của văn hoá xưa nay đã cho cuộc sống họ có một hướng đi… Những thay đổi trong công nghệ và trong
các quan hệ làm việc diễn tiến quá nhanh, tới mức các nền văn hoá không thể nào đáp ứng kịp”
còn tiếp |
|