Đọc tông thư "Về hi vọng ki-tô giáo"
của ĐỨC THÁNH CHA Biển-đức 16

Phạm Hồng-Lam

------------Năm trước, khi giới thiệu Thông điệp đầu tiên của mình (Deus Caritas est - Thiên Chúa là Tình yêu), giáo chủ Biển-đức XVI đã mời độc giả bước lên con tàu không gian, mà thi sĩ Dante (1265-1321) người Í đã mô tả trong tập trường thi Divina Comedia của ông, để cùng làm một chuyến du hành vũ trụ. Đi mãi, đi mãi, xuyên hết mọi hành tinh, cuối cùng con người sẽ gặp một “Nguồn Sáng bất tận, vô biên”. Nguồn sáng đó, người Ai-cập xưa có lúc gọi là thần Mặt Trời, người Hi-lạp bảo là Lửa. Mà dù với tên gọi nào đi nữa, thì Nguồn Sáng đó là “nguyên lí nền tảng” làm chuyển động và tạo nên sự sống cho vũ trụ. Và Dante gọi Nguồn Sáng đó là Thiên Chúa. Hơn một ngàn năm trước đó, tác giả Tin Mừng Gio-an lại gọi đó là Tình Yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Yo 4, 16). Ki-tô hữu từ hai ngàn năm nay xác tín rằng, Tình yêu Thiên Chúa chính là khởi nguồn của vũ trụ và sự sống.


------------Hôm nay, để giới thiệu Tông thư thứ hai “Spe Salvi - Hi vọng ki-tô giáo” của Giáo chủ, tôi cũng muốn mời độc giả làm một cuộc viễn hành khác, bằng chuyến xe lửa kinh dị của nhà văn Friedrich Dürrenmatt. Dürrenmatt kể trong chuyện “Der Tunnel - Đường hầm”: Đoàn tàu đi vào một đường hầm. Hành khách trên tàu cứ tưởng đó cũng là một đường hầm như bao đường hầm khác. Có vào thì có ra. Nhưng chuyến vượt hầm cứ kéo dài mãi. Tốc độ con tàu càng lúc càng tăng. Hành khách bắt đầu đâm lo, rồi hoảng. Cuối cùng, một hành khách lấy được bình tĩnh, men lần tới phía đầu phòng lái. Phòng lái trống không! Và qua màn kính, người đó thấy con tàu cứ lao vun vút vào một vực thẳm tối đen, hun hút, kinh hoàng… Chuyện chấm dứt. Dĩ nhiên, có thể hiểu Dürrenmatt muốn dùng câu chuyện để nói lên hoàn cảnh “không người lái” của thế giới trong thời hiện đại, đặc biệt kể từ khi Friedrich Nietzsche hân hoan loan báo đã giết Thiên Chúa.

------------Nhưng, ta hãy trở lại chuyện con tàu. Hoạt cảnh sau đây là của người viết bài này. Khi hay biết cơ sự, trên tàu hoảng loạn, diễn ra cảnh thiên đàng lẫn địa ngục. Có vài hành khách trai trẻ, đầu chít vội mảnh khăn xanh, quấn bom vào mình lao vào những nhóm hành khách khác, nổ tung. Họ cho rằng vì tội lỗi của những đám vô đạo kia nên mới ra cơ sự. Phải giết chúng để mình được cứu rỗi. Ở những toa khác, trong cơn nguy khốn chờ chết, người ta mỗi người rút vào một góc, trong số đó có cả những tên cướp đã vứt đao, tịnh tâm mong kịp thời còn cởi bỏ được mọi ham muốn phàm trần, để nhẹ gánh vào kiếp luân hồi. Chẳng mấy ai trong họ tin có thể đạt tới vô thường, nhưng viễn ảnh vào một tình trạng bớt khổ hơn ở kiếp khác cũng làm họ an tâm đôi chút trong giờ phút lâm tử. Trong khi đó, một số tay chuyên nghề trấn lột chạy đôn đáo hết toa này sang toa kia tìm khổ chủ để xin lỗi và trả lại những gì đã bị cướp giựt, vì biết rằng trước sau gì cũng phải trả lẽ công lí trước toà án sau cùng. Một số hành khách mắt xanh mũi cao thì lại hốt hoảng chạy tìm giải thoát nơi các tín ngưỡng của các dân tộc sơ khai, vì họ đổ cho rằng, Thiên Chúa giáo với những giáo huấn về tội, thiên đàng, hoả ngục, ngày phán xét… đã cướp mất cái hồn nhiên ban đầu của con người và khiến họ lo sợ trước cái chết. Và họ cũng đã thấy trong một đôi toa người ta đang hoảng hốt cắt cổ mổ bụng những thiếu niên nam nữ xinh đẹp nhất để làm tế vật xoa dịu cơn thịnh nộ của thần chết. Và, đó đây trong một vài toa, vẳng lên trong không khí ngột ngạt tiếng ca: “Dầu tôi đi qua thung lũng tối đầy hiểm nguy, tôi vẫn không sợ gì, vì có Chúa ở bên tôi… Cây trượng và cây gậy Chúa đỡ tôi, khiến tôi an lòng…” Người ta thấy những nhóm hành khách, không đông, quây quần bên nhau vui vẻ ca hát và cầu chúc nhau ra đi bình an. Như chẳng có chuyện gì đang xẩy ra.

------------Chẳng nói, độc giả cũng thấy có hai hình ảnh trong hoạt cảnh trên nói lên ít nhiều thái độ và hành động của ki-tô hữu. Thái độ bình thản ca hát, vì tin tưởng và hi vọng vào sự quan phòng của Chúa. Thái độ hồi tâm quy chánh, vì nghĩ tới công lí và hồng ân của ngày phán xét. Tắt lại, vì có Chúa, nên ki-tô hữu sống “không vô vọng như những người khác.” Vì tin và hi vọng vào Chúa, nên ki-tô hữu không hốt hoảng, trái lại bình tâm vui vẻ đón chờ cái chết. Họ biết, họ đã sống một cuộc đời có í nghĩa, nên nắm chắc cuộc sống của họ sẽ không kết thúc trong hư vô. Họ tin rằng, nếu thật tình sống theo lời Chúa, cuối cùng thì họ cũng được đưa vào Nguồn Sáng bất diệt trên kia, và được ở lại vĩnh viễn (sống đời đời) trong Tình Yêu sự sống đó.

------------Nếu chỉ muốn tóm tắt Tông thư của Giáo chủ, thì chúng ta có thể kết thúc ở đây. Vì tất cả chỉ có thế. Giáo chủ Biển-đức chỉ muốn nói lên điều này: Con người sống giữa đời cần có hi vọng, từ những hi vọng cỏn con thường ngày đến những hi vọng lớn hơn trong nghề nghiệp, tình yêu, gia đình… Hi vọng là những chiếc thuyền chở tôi băng qua đồi núi, thác ghềnh cuộc đời. Hay nói như giáo chủ Biển-đức, hi vọng là cái “ẩn số không biết mà biết” đẩy ta đi tới. Mỗi hi vọng đáp ứng một nhu cầu cá biệt. Nhưng có một hi vọng chung nhất, rốt ráo nhất, hầu như ai cũng đặt ra cho mình, khi đối diện với cuộc sinh tử: Làm sao để đời tôi được viên mãn hạnh phúc? Hay nói theo ngôn ngữ ki-tô giáo, làm sao tôi đạt được “sự sống đời đời”, đạt tới “cứu độ”? Chỉ có Thiên Chúa, kì cùng ra, mới giúp tôi đạt đến được hi vọng đó, chứ chẳng phải là khoa học, hay lí trí hay cái gọi là “xã hội chủ nghĩa khoa học”, mà con người một thời tin theo và đã thất vọng.

Lược qua vài điểm nội dung Tông thư

------------Nhưng, như đầu bài gợi í, tôi muốn mời độc giả cùng đọc Thông thư, để cùng tìm hiểu và nhắc nhở nhau về cái kho tàng nền tảng thứ hai (sau Deus caritas est) cuả Ki-tô giáo, mà giáo chủ Biển-đức đã mở ra cho chúng ta trong dịp mùa vọng – mùa của hi vọng – vừa qua.

------------Trong một buổi chuyện trò, một trí thức xã hội chủ nghĩa đã lớn tuổi hỏi tôi: Thưa anh, Kinh Thánh Thiên Chúa giáo viết gì trong đó, anh có thể tóm tắt cho tôi hiểu được không? Thật tình vị này muốn tìm hiểu đạo. Tôi lúc đó đã không biết phải trả lời như thế nào, phải bắt đầu từ đâu với một cuốn sách cả ngàn trang, bàn hết chuyện trên trời dưới đất, kéo dài cả nhiều ngàn năm. Làm sao có thể tóm gọn được nội dung!

------------Nhưng sau khi đọc được Spe Salvi, tôi thấy câu trả lời chẳng còn khó khăn. Toàn bộ Kinh Thánh, nói theo giáo chủ Biển-đức, được tóm lại trong chữ Tin. Tâm điểm của vấn đề là Tin. Mà Tin, theo như Kinh Thánh hiểu và Giáo hội sơ khai minh chứng, cũng đồng nghĩa với Hi vọng. “Tin là bản chất (nền tảng/ bảo chứng) của điều ta hi vọng, là bằng chứng của những gì ta không trông thấy” (Rom 11,1). Tiếng Đức có hai từ để dịch chữ la-tinh “Fides” (đức tin): Glauben (tin) và Vertrauen (phó thác, cậy trông). Tin là Hi vọng. Đức tin mở ra cánh cửa Hi vọng. Và Hi vọng dẫn ta tới hành động, làm đổi đời ta. “Để mở rộng kiến thức, cần khoa học tự nhiên, nhưng để hành động, phải cần đức tin”, Max Planck (1858 - 1947) nhà vật lí cha đẻ thuyết lượng tử (Quantentheorie) nổi tiếng của Đức đã khẳng định như thế. Hi vọng mở ra một tương lai cho ta vươn tới. Vì thế, cuộc đời của người theo Chúa có hậu, chứ không vô vọng “như những người khác vì không có Chúa…” Nhờ gặp Chúa, tin vào Chúa, mà ki-tô hữu có một cuộc sống khác, đời họ đổi khác.