|
----------- Về phía Tòa Thánh luôn luôn ủng hộ sự xác tín phổ cập trong Giáo Hội về đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria. Đức Giáo Hoàng Sixtus IV nghiêm cấm tất cả những chống đối cho rằng giao huấn về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria là lạc đạo. Còn thánh Giáo Hoàng Piô V, một thầy Dòng Đa-minh, cấm đưa giáo huấn ra bàn cãi một cách công khai, ngoại trừ ở các đại học. Năm 1661 Đức Giáo Hoàng Alexandre VII đã ban hành một Sắc Chỉ nêu lên những yếu tố quan trọng, như một chuẩn bị cho định tín năm 1854.
----------- Vào đầu thế kỷ XIX tín điều vẫn còn bị chống đối nơi một số người thuộc phái Jansénistes (phái Khắc Khổ) ở Pháp, bởi vì theo họ thì sự phát triển thần học của Giáo Hội đã được khép lại với thời thượng cổ (thánh Augustinô). Phái Jansénistes ngày xưa cũng có thể so sánh với một số các nhà thần học ngày nay đã giới hạn việc phát triển các tín điều lại trong thiên niên kỷ thứ nhất mà thôi. Nhưng đại đa số trong Hội đồng Giám Mục Đức và các phân khoa thần học trong vùng lãnh thổ nói tiếng Đức – dĩ nhiên không hẳn vì lý do đại kết Kitô giáo – đã tỏ thái độ hoàn toàn lạnh nhạt với khuynh hướng của các nhà thần học đó.
-----------Bởi vậy, khi giáo sư thần học Georg Hermes (đh. Köln/Đức) và các học trò của ông tuyên truyền sự hoài nghi về đặc sủng vô nhiễm thai của Đức Maria, thì vào năm 1837 Đức Tổng Giám Mục Köln đã đòi buộc các Linh mục trong Giáo phận của ngài phải tuyên tín giáo huấn đó trên giấy tờ hẳn hoi. Ngoài ra, việc công bố cách long trọng tín điều đã được cổ vũ nhờ lời đề nghị của thánh Leonhard Porto Maurizio (1751) triệu tập một "Công đồng bằng văn thư", tức Đức Thánh Cha thăm dò ý kiến của các Giám Mục trên thế giới. Trong thế ký XVII và XVIII, các vua Tây Ban Nha luôn luôn cố gắng vận động ban hành tín điều.
-----------Vào năm 1840, 51 Giám Mục người Pháp đã đệ trình Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI thỉnh nguyện thư xin ban hành thành tín điều. Và sau đó các Giám Mục khác cũng đồng thuận như vậy. Ngoài ra, từ năm 1834 một số lớn các vị Hồng Y, Giám Mục và các Dòng Tu (kể cả Dòng Đa-minh) đã xin Đức Grêgôriô đưa tĩnh từ "vô nhiễm" vào trong Kinh Tiền Tụng ngày Lễ Đức Maria được cưu mang và vào trong Kinh Cầu Đức Bà: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông", một điều mà các thầy Dòng Phan-xi-cô đã làm từ lâu. Đến năm 1847 thì các sách phụng vụ do Đức Piô X ban hành đều có thêm vào trong Kinh Tiền Tụng va Kinh Cầu Đức Bà tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm.
----------- Hiện tượng này đã làm sống động lại tinh thần sống đạo sốt sắng trong Giáo Hội Công Giáo, mà những biến động bất ổn của thời phục hưng cũng như cuộc cách mạng Pháp làm vùi lấp đi. Kho tàng truyền thống của Giáo Hội đặc biệt về Đức Kitô và Đức Maria lại được tái khám phá. Nhiều Dòng Tu mới thành lập đã đề cao lòng sùng kính Đức Mẹ. Biến cố chủ chốt chính là biến cố Đức Mẹ hiện ra cùng thánh nữ Catharina Labouré ở đường "Rue du Bac" ở Paris (1830), trong đó Đức Mẹ đã tự giới thiệu trên bức "Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn" với Lời Kinh: "Lạy Đức Maria Vô Nhiễm, xin cầu cho chúng con những kẻ chạy đến nương ẩn nơi Mẹ." Ngoài ra còn có vô số tác phẩm thần học đã đóng góp vào công cuộc soạn sửa cho định tín về Đức Mẹ Vô Nhiễm, trong đó phải kể trước hết công trình đặc khảo của Linh mục Dòng Tên Giovanni Perrone năm 1847.
----------- Từ năm 1848 các Ủy Ban Toà Thánh đã chính thức bắt đầu nghiên cứu vấn đề. Năm 1849, Đức Giáo Hoàng IX đã yêu cầu các Đức Giám Mục trên khắp thế giới cho biết ý kiến về định tín có thể sẽ được công bố. Trong số 603 vị trả lời, có 546 vị ủng hộ việc đưa đặc sủng Vô Nhiễm Thai của Đức Maria đặt thành tín điều. Trong số 57 vị Giám Mục còn lại, thì chỉ có 8 vị là hoàn toàn chống lại việc ban bố tín điều; số các vị còn lại hoặc giữ thái độ trung lập hoặc cho rằng việc lập thành tín điều là quá vội vàng. Dĩ nhiên, tất cả các Giám Mục đều chứng nhận rằng Dân Chúa khắp nơi xác tín rất sâu xa về sự Vô Nhiễm Thai của Đức Maria.
3. Nội dung ý nghĩa của tín điều
-----------Cuối cùng, vào ngày 8.12.1854, qua Sắc Chỉ "Ineffablis Deus", tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Thai đã được long trọng công bố:
-----------"Do quyền năng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô và do quyền năng của Ta, Ta giải thích, tuyên bố và minh định rằng giáo huấn cho rằng Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria nhờ ơn thánh và lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng dựa vào công nghiệp Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, đã được giữ gìn tinh tuyền trước vết nhơ tội nguyên tổ, được Thiên Chúa mặc khải và vì thế đòi buộc mọi tín hữu phải tin một cách chắc chắn và bền vững"(4).
----------- Tín điều nhấn mạnh đến việc Đức Maria được gìn giữ hoàn toàn trước tội nguyên tổ. Sắc lệnh của Công đồng Trient về tội nguyên tổ đã định nghĩa: "Tội lỗi là sự chết của linh hồn" (peccatum, quod mors est animae)(5). Sự ghi nhận này người ta có thể tìm gặp trong Công Nghị Orange II năm 529(6) và trong các tác phẩm của thánh Augustinô. Các Giáo Phụ Hy-lạp cũng đồng một quan điểm như thế về hậu quả của tội nguyên tổ. Khác với Luther, một thầy Dòng Augustin và là cha đẻ của hệ phái Tin Lành ở Đức, Công đồng Trient phân biệt giữa tội nguyên tổ và khuynh hướng phạm tội (concupiscence), điều mà thánh Phaolô thỉnh thoảng cũng gọi là "tội"(7), nhưng đó không phải là "tội thực sự", nhưng là khuynh hướng "do tội gây ra và hướng chiều về tội"(8). Tridentinum cho rằng tội riêng của con cháu A-dong là hậu quả của ảnh hưởng tội nguyên tổ, là "sự di truyền của A-dong", và cuộc sống xum họp thân giao với thiên Chúa trên Thiên đàng được đánh dấu bằng ý niệm "sự công chính và thánh thiện"(9), điều mà thánh Phaolô cũng đề cập trong Thư Êphêsô (4,24) như là tình trạng của những người đã được chịu Phép Thánh Tẩy.
-----------Điều quan trọng đáng ghi nhận ở đây là tính cách đặc biệt về việc gìn giữ khỏi tội nguyên tổ "nhờ ơn thánh và lòng ưu ái đặc biệt của Thiên Chúa Toàn Năng" (singulari omnipotentis Dei gratia et privilegio)(10). Ở đây, người ta tự hỏi: Phải chăng đặc sủng này chỉ dành cho một mình Đức Maria mà thôi? Sắc Chỉ "Ineffabilis Deus" đã khẳng định rõ ràng là đặc sủng đó chỉ dành cho Mẹ Thiên Chúa mà thôi, và ngoài Đức Maria không một tạo vật nào được hưởng đặc sủng đó. Tuy nhiên, Đức Piô IX đã không công bố dự kiến xác định tính cách đặc thù tuyệt đối của việc Đức Mẹ Vô Nhiễm. Vì lý do đó, nên những ý kiến ngông cuồng quá khích cho rằng cả Thánh Giuse cũng được ơn vô nhiễm thai, đã không bị kết án một cách công khai.
----------- Nhưng trong Thông điệp "Fulgens Corona" dịp kỷ niệm 100 năm tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm (1953), Đức Piô XII đã tuyên bố rõ ràng rằng ơn Vô Nhiễm là "đặc ân duy nhất không được dành cho bất cứ ai khác ngoài Đức Maria ra." Cuối cùng, bản văn của tín điều đã nhấn mạnh rằng việc Đức Maria được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ là "nhờ vào công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc nhân loại".
-----------Như thế, Đức Maria không bị loại trừ khỏi sự cứu rỗi, nhưng là hiện thực một cách trọn vẹn nhất công trình cứu độ của Đức Kitô. Vì thế, Sắc Chỉ "Ineffabilis Deus" đã nhấn mạnh: "Rất Thánh Trinh Nữ Maria và Mẹ Thiên Chúa, nhờ vào công nghiệp của Chúa Cứu Thế, đã không hề bị vướng mắc tội nguyên tổ, nhưng đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội nguyên tổ ngay trước được cưu mang".
-----------Bởi vậy, biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức được coi là ấn tín của trời cao chuẩn y ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng, mặc dù định tín đã được "Công đồng bằng văn thư" của các Đức Giám Mục trên thế giới nhất trí ủng hộ. Đồng thời biến cố Đức Mẹ hiện ra cũng là một cú đòn đánh vào những trào lưu thế tục chống báng Thiên Chúa và Giáo Hội do các ảnh hưởng thời phục hưng để lại. Trong một bài báo vào năm 1870, giáo sư thần học tín lý Mathias Joseph Scheeben, đại học Köln, đã gọi ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng mà Công đồng Vatican I xác định, và tín điều về Đức Mẹ được Đức Piô IX công bố trước đó là hai "phương dược chính chữa lành cho những sai lầm cơ bản của thời đại chúng ta hôm nay: Chủ nghĩa tự nhiên, cùng với chủ nghĩa duy trí và chủ nghĩa tự do"(11).
----------- Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm đồng thời còn là sao mai của ơn thánh trên bầu trời của thế kỷ XIX, là ngôi sao đã loan báo trước "mặt trời ơn thánh xuất hiện trong xác phàm"; còn "ngai toà vô ngộ của Đấng Kế Vị Đức Kitô" là "sao hôm phản chiếu lại trọn vẹn ánh sáng của mặt trời chân lý vĩnh cửu đã lặn khỏi mặt đất", hầu ngăn chặn không để bóng tối vô đạo trở lại trên nhân loại nữa(12). Theo giáo sư Scheeben, hai ngôi sao đã nhận lãnh được "ánh sáng từ Đức Kitô, mặt trời ơn thánh và mặt trời chân lý"(13). Cả hai tín điều trình bày tính cách siêu nhiên của Kitô giáo một cách rõ ràng cụ thể. Với hai ngôi sao sáng chói đó, những tín hữu Công Giáo có thể chiến thắng được "hoả ngục và tinh thần thế tục" đang tự huỷ diệt "trong sự tự phụ về bản chất, lý trí và sự tự do của mình". Bởi vì, chủ nghĩa tự do cũng đã thấm nhiễm vào nhiều người Công Giáo, nhất là tại Đức, nên một sự suy niệm sâu xa về tính chất siêu nhiên của Kitô giáo là một điều hết sức quan trọng (14). |
|