|
------------Trải dài trong lịch sử ki-tô giáo có vô số bằng chứng nói lên điều đó. Không cứ gì ở Rô-ma cổ, mà cả ở Kẻ Chợ, đâu đâu dân ngoại cũng trầm trồ ngỡ ngàng về “những kẻ theo đạo yêu thương”. Đạo gì mà quả lạ, chưa gặp nhau mà họ đã yêu nhau rồi! Nhìn vào những tấm gương mới hơn: một An-tịnh (Augustinus), một I-nhã ở Loyola, một Phan-sinh ở Assisi, một Tê-rê-xa ở Calcutta… Trác táng hay khó tính đến đâu đi nữa, sau khi gặp Chúa, đời họ chuyển hướng. Hay như tấm gương thánh Bakhita, mà giáo chủ Gio-an Phao-lô mới đưa lên bàn thánh, và đã được giáo chủ Biển-đức nêu danh trong Tông thư. Bakhita là một cô gái nô lệ ở Sudan, bị người ta năm lần bảy lượt mang ra chợ trời bán và đánh đập tàn nhẫn (với tổng cộng 144 vết thẹo trên mình). Cuối cùng về làm nô lệ cho một công chức, và ông này đã mang cô về Ý để hầu hạ gia đình ông. Ở đây, cô đã gặp được ông Chủ lí tưởng của cô, đó là “Chủ” Giê-su, và từ đó đời cô biến đổi hoàn toàn. Thành một nữ tu hết lòng phục vụ cộng đoàn và không ngừng đi khắp đây đó để loan báo cho mọi người hay về cuộc đổi đời và về ông Chủ mới của mình.
Biến chuyển trong thời mới
------------Khi nhìn lại quá trình lịch sử trong mấy trăm năm gần đây, ta thấy đức tin / hi vọng ki-tô giáo bị ảnh hưởng nặng nề bởi Thời mới (từ thế kỉ 16 trở đi). Đấy là thời mở màn Tiến bộ khoa học với hai hậu cảnh lớn là Lí trí và Tự do. Thời mới đã ảnh hưởng lên Hi vọng ki-tô giáo trên hai mặt. Nó làm thay đổi mục tiêu của Hi vọng, và đẩy Đức tin vào vòng cá nhân.
------------- Thay đổi mục tiêu Hi vọng: Cho tới lúc này, con người đặt hết hi vọng vào Thiên Chúa qua đức Ki-tô. Ngài sẽ “cứu độ” họ, bằng cách giúp họ lấy lại được những gì đã mất khi bị đuổi khỏi vườn địa đàng. Ngài sẽ mở cánh cửa hạnh phúc đời đời của “Vương quốc Thiên Chúa”, để con người bước vào. Cuộc sống viên mãn là đó. Hạnh phúc tràn đầy là đó. Ơn cứu độ là đó. Chính Chúa là kẻ sẽ trao cho họ chìa khoá hạnh phúc, cuộc sống đời đời.
------------Nhưng tiến bộ không ngừng gia tăng của khoa học đã làm choá mắt con người. Tiến bộ khoa học dựa trên nền tảng khám phá ra các quy luật thiên nhiên. Và với những khám phá đó, con người nghĩ rằng mình đã lấy lại được địa vị bá chủ trên tạo vật của mình, cái địa vị uyên nguyên mà họ đã có khi còn trong địa đàng. Như vậy, thì tôi mới là chủ thật, chứ cần gì “cái giả thuyết Thiên Chúa” (Laplace) kia nữa. Với sức người, sỏi đá cũng thành cơm mà. Như thế, thì cần gì cái “Vương quốc Thiên Chúa” xa xôi nào nữa. Hi vọng vào Chúa giờ đây chuyển sang hi vọng vào Tiến bộ khoa học. Mà Tiến bộ khoa học cũng đồng nghĩa với khả năng bá chủ của Lí trí. Và, tôn thờ Lí trí cũng có nghĩa là phải chống lại mọi trói buộc của tôn giáo, đồng thời phải đòi cho con người được Tự do vô giới hạn. Con người giờ đây là tối cao. Nó tự đặt ra chân lí cho nó. Nó tự tạo công lí cho nó. Nó sẽ tự cứu độ nó, chẳng cần phải ai giúp. Và lịch sử kinh hoàng của thế kỉ 20 với hai trận thế chiến, với các chủ nghĩa cộng sản và phát xít, độc tài cực đoan cho thấy con tàu không người lái đã đưa nhân loại về đâu. Vì khi không còn Thiên Chúa cầm lái nữa, thì chỉ còn luật kẻ mạnh, mọi người có quyền tự do làm điều mình muốn. Hitler, Mussolini, Franco, Lenin, Stalin, Mao, Polpot, cha con Kim Nhật Thành, Adi Amin, Taylor … đã hành xử cái tự do chính đáng của họ.
------------- Cá nhân hoá đức tin : Đã có Vương quốc con người, không cần gì hi vọng cứu rỗi nơi «Vương quốc Thiên Chúa » nữa. Thời mới và khoa học thật ra không (thể) triệt tiêu Thiên Chúa. Nhưng trước sức ép vũ bão của chúng, Ki-tô giáo đành bảo nhau mang Hi vọng rút vào sân sau cá nhân cố thủ. Vì vậy, càng ngày nó càng bị chỉ trích mạnh mẽ. Người ta bảo rằng, Hi vọng ki-tô giáo là thứ thuần tuý cá nhân chủ nghĩa, nó giúp con người chạy trốn khỏi thế giới đầy bất hạnh, để đi tìm cứu rỗi cho riêng mình. Karl Marx đã điểm được yếu huyệt này, nên đã cổ vũ một cuộc cứu độ tập thể. Ngọn cờ tập thể này đã mê hoặc bao nhiêu thế hệ trong thế kỉ 20, đặc biệt nơi giới gọi là trí thức. Nhưng cứu độ của ông không bằng phương tiện Tình yêu (như Ki-tô giáo chủ trương), mà bằng con đường chém giết, bằng những cuộc cách mạng long trời lở đất. Nhân danh tập thể, ông coi con người cá nhân là thứ rác rưởi, dùng làm nhiên liệu cho cỗ máy cách mạng. Và lịch sử đã cho thấy chủ trương cứu rỗi tập thể và Vương quốc con người hoang tưởng do Marx và hậu duệ của ông hô hào thiết lập đã đi về đâu.
------------Tóm lại, để giải quyết cái khủng hoảng không người lái hiện tại của thế giới, theo giáo chủ Biển-đức, một đàng Thời mới phải tự kiểm điểm, bằng qua đối thoại với Ki-tô giáo và bằng cách tìm hiểu khái niệm Hi vọng của nó; đàng khác Ki-tô giáo cũng phải tự xét lại mình. Ki-tô giáo phải tự hỏi, đâu là nội dung Hi vọng thực sự của mình, và Hi vọng đó có thể và không có thể mang lại ơn ích gì cho thế giới? Còn Thời mới sẽ phải tự hỏi, đâu là thực chất của Tiến bộ, nó hứa hẹn gì và không hứa hẹn gì? Bởi vì, nếu Tiến bộ kĩ thuật không đi đôi với sự tăng trưởng đạo đức, thì nó sẽ chẳng phải là tiến bộ, mà là mối đe doạ cho nhân loại và thế giới, như ta đã và đang thấy. Thời mới cũng phải hỏi, đâu là biên giới của Lí trí và Tự do:
------------« Phải chăng thứ lí trí giúp mở rộng khả năng thể chất của ta và giúp ta hành động đã là toàn bộ lí trí? Nếu tiến bộ đòi hỏi sự gia tăng đạo đức của nhân loại, thì loại tiến bộ về khả năng và hành động cũng nhất thiết phải được bổ túc, bằng cách nó phải mở ra cho lực cứu độ của đức tin và cho sự phân biệt tốt xấu. Chỉ có như thế, nó mới là lí trí con người đích thực. Để được gọi là lí trí con người, lí trí đó phải có khả năng hướng đạo cho í muốn; và để làm được điều này, lí trí đó dứt khoát phải vượt lên trên chính nó. Nếu không, thì với tình trạng mất thăng bằng giữa một bên là khả năng thể chất và bên kia là thiếu phán đoán của con tim, con người sẽ trở thành mối đe doạ cho chính mình và cho tạo vật. Về “tự do” cũng vậy. Ta phải nhớ rằng, tự do con người luôn đòi hỏi một sự song hành của nhiều tự do. [Tự do cũng có nghĩa là tự do làm điều xấu] Nhưng, không thể có được sự song hành này, nếu như các tự do đó không được chỉ đạo bằng một khuôn thước nội tâm chung, và khuôn thước này là nền tảng và là mục tiêu tự do của chúng ta. » (23) |
|