Môi trường học hỏi và đào luyện Hi vọng.

------------Tông thư gồm 50 đoạn, nội dung tương đối ngắn (bản dịch Việt ngữ có thể lấy xuống từ www.liendoi.net), nhưng trọng lượng khá nặng, vì sự súc tích và chiều sâu kiến thức của nó. 31 đoạn đầu bàn về lí thuyết, mà chúng ta đã lược qua một vài điểm trọng yếu trên đây. Đoạn 32 tới 48 trình bày phần thực hành Hi vọng. Hai đoạn cuối là một bài ca tuyệt đẹp về Mẹ Maria như là mẫu gương Hi vọng.

------------Về môi trường học tập và thực hành Hi vọng, Giáo chủ kể ra ba : Cầu nguyện, Hành động và khổ đau, Cuộc phán xét.

------------Cầu nguyện là môi trường căn bản đầu tiên để luyện tập và thực hành đức tin. Đó là nhựa sống từ lòng đất thân cây hút vào để nuôi sống mình. Trong mục này, Giáo chủ nhắc tới gương cầu nguyện của cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận. Trải qua 13 năm tù, trong đó 9 năm biệt giam, cầu nguyện đã trở thành nguồn Hi vọng sống sót của ngài, mà ngài đã gọi đó là « Đường Hi Vọng ». Trong cầu nguyện, ta không còn cô đơn. Nỗi cô đơn của ta (Solatio), đã có một kẻ khác cùng hiện diện trong đó và được chia sẻ (Cum / Con): Con-solatio. Con đường hi vọng đó giúp tôi vươn tới, vượt lên trên cả những o ép và đày đoạ của quyền lực chính trị. Nó giúp tôi chấp nhận và vượt thắng khổ đau, vì tôi hiểu rằng đau khổ đó làm cho đời tôi có ý nghĩa. Về điểm này, Giáo chủ lại nhắc tới gương một người Việt khác, đó là thánh tử đạo Lê Bảo Tịnh (+1857). Trong lao tù, giữa cô đơn, đày đoạ, cực hình, và hàng ngày phải chứng kiến bao cảnh phạm thượng, nhờ sức mạnh hi vọng từ đức tin, thánh nhân đã chuyển hoá đau khổ thành ra những bài ca hi vọng bất tận: Lượng từ bi Chúa tồn tại tới muôn đời! «Giữa cơn phong ba bão táp, tôi thả neo lên tận ngai Chúa; chính Ngài là niềm hi vọng sống mãi trong lòng tôi », thánh Tịnh đã kết thúc chứng từ của mình với niềm tác tín đó.

------------Trong kho tàng Hi vọng của Giáo hội, thiếu gì và có biết bao tấm gương còn lớn hơn. Nhưng giáo chủ Biển-đức đã đưa ra những tấm gương từ hai miền đất thế giới hiện đang phải trải qua hoàn cảnh nghiệt ngã. Sudan, từ nhiều năm nay, là vùng đất của bạo lực và máu, của những tiếng gào thất thanh của hàng triệu người dân tị nạn vô tội. Hồ sơ Nguyễn Văn Lý và con đường thánh giá của cố hồng i Thuận cũng như của Giáo hội Việt-nam cũng chẳng xa lạ gì đối với giáo chủ Biển-đức. Ở đây, tôi không có ý « chính trị hoá » lá thư mục vụ của ngài. Nhưng việc ngài nêu tên hai địa danh đó lúc này không phải là không có nghĩa. Ngài muốn chia sẻ khổ đau đặc biệt với hai dân tộc qua lời nguyện hi vọng, và hơn thế, đó cũng là lời động viên gởi đến đồng đạo của ngài. Tôi nghĩ, các cộng đoàn, tổ chức công giáo người Việt nên viết cho ngài đôi lời cám ơn về niềm ưu ái đó. Đấy là hành động biết ơn cụ thể. Đừng để lá thư tâm huyết hữu ích của ngài chìm đi như không có gì cả. Hồng Y Karl Lehmann, chủ tịch Hội đồng giám mục Đức, hôm họp báo giới thiệu Tông thư, đã thay mặt Giáo hội Đức cám ơn giáo chủ Biển-đức đã cho họ một bài văn hay, một tài liệu bổ ích cho việc sống mùa Vọng.

------------Trở lại với Hi vọng và đau khổ. Cầu nguyện và Hi vọng là sự cọ xát tẩy sạch con người tôi, để tôi có thể mở lòng ra cho Chúa và tha nhân. Hi vọng chở tôi băng qua mọi thác ghềng cuộc đời, vì tôi biết rằng đàng kia có người đang yêu tôi, đang sẵn sàng đồng hành với tôi trên con đường lữ thứ và đang đón chờ tôi nơi điểm hẹn. Và như thế, Hi vọng đẩy tôi dấn thân hành động, góp phần đổi mới thế giới, góp tay vào việc làm giảm bớt khổ đau cho thế giới, nhất là cho những người vô tội.

------------Cuối cùng, toà phán xét cũng là cơ hội để ta Hi vọng. Thiên Chúa không chỉ là Tình yêu, mà Ngài còn là Công lí. Và toà phán xét là nơi công lí của Ngài sẽ thể hiện. Vì rằng, nếu chỉ là Tình yêu hay Hồng ân mà thôi, thì tôi lo gì với điều đánh cuộc của Pascal , và như thế Chúa sẽ mắc ta món nợ công lí. Tôi cứ mặc sức ăn chơi, tự do làm điều xấu, vì cuối cùng rồi thì lượng hồng ân bao la của Chúa cũng sẽ thứ tha, xoá sạch tội của tôi. Nhưng Thiên Chúa không chỉ là Hồng ân. Và hồng ân của Ngài không biến sự ác thành công lí. Kẻ bất lương không thể cuối cùng ngồi chung bàn tiệc với nạn nhân của nó. Nhưng nơi toà án của Chúa có cả hồng ân lẫn công lí, và hồng ân đó luôn đủ lớn để ta bất cứ giờ phút lịch sử nào của đời mình cũng có thể trở về cậy trông và hi vọng vào nó.

------------Tôi không có kết luận cho bài này, vì không đủ khả năng để nhận định hay phê bình. Mà chỉ muốn mở ra đôi điều về cuộc hành trình tư tưởng của giáo chủ Biển-đức XVI. Chúng ta đang ở trong một thời đại khủng hoảng Hi vọng (Đức tin). Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ Thời mới ở Âu châu, với sự Tiến bộ của khoa học và với việc đề cao tuyệt đối Lí trí. Và khủng hoảng ki-tô giáo cũng là khủng hoảng của văn hoá văn minh âu châu. Mục tiêu của giáo chủ Biển-đức là làm sao để thế giới thoát ra cơn khủng hoảng này. Ngài đưa ra hai phương thuốc :

------------Thời mới phải đặt lại vấn đề niềm tin mù quáng vào Tiến bộ khoa học và vào Lí trí của mình. Lịch sử thế giới, được xây trên niềm tin đó, hơn một trăm năm qua với bao kinh hoàng và vực thẳm đã đủ để Thời mới phải đặt lại vấn đề. Nếu cứ tiếp tục chấp nhận tình trạng không người lái, chắc chắn con tàu sẽ đưa nhân loại vào những kinh hoàng vô lường khác. Đây là một đòi hỏi sống chết của Biển-đức; một mặt trận mà ngài đã mở ra từ ngày còn là một giáo sư đại học.

------------Phía Ki-tô giáo cũng phải xét lại mình. Xét mình để tìm lại đâu là bản chất đích thực của mình. Đâu là lí do làm cạn kiệt sức sống và hiệu năng vốn có của mình, khiến mình phải rút lui vào thế thủ. Trong quá trình hai ngàn năm, Ki-tô giáo đã vì hoàn cảnh hoặc vì lòng người chất chứa lên con tàu khí cầu của mình qúa nhiều thứ, khiến nó nặng nề không bay bổng lên được. Phải xem lại hành lí, lọc lựa ra cái gì là bản chất để làm hành trang lên đường. Hãy « Verwesentlichung » (bản chất hoá, tìm cái cốt tuỷ, một từ mà nhà thần học Ratzinger tâm đắc) Giáo hội. Với nhận thức này, với « Spe Salvi » về lòng Cậy tiếp theo « Deus caritas est » về lòng Mến, giáo chủ Biển-đức đã đưa ra cho chúng ta hai nét bản sắc tuyệt đẹp của Ki-tô giáo, những thứ mà, nếu xét cho kì cùng, không một tôn giáo nào khác có thể cung ứng cho ta được.

------------Nắm được sợi chỉ đỏ trên, ta sẽ hiểu rõ hơn về hành trình tư tưởng đã, đang và sẽ tới của Giáo chủ.
Augsburg, ngày 10.01.2008