|  | 
 Nghệ Thuật Giảng Dạy 
 
 (Dành cho GLV)
 
 
 Thiên Chúa Cha dạy con cái Ngài thế nào? Con cái thế nào thì Ngài chấp   nhận chúng như thế, và Ngài làm việc để giải thoát chúng khỏi tội lỗi và   kéo chúng lại với chính Ngài. Thiên Chúa cha hoạt động qua các biến cố   của cuộc sống từng người để tỏ Mình ra và để thiết lập một cam kết yêu   thương chung thủy với người đó.
 
 Cách giáo dục hay nghệ thuất giảng dạy của giáo lý viên phải bắt chước   cách giáo dục của Thiên Chúa. Giáo lý viên phải giúp người học giáo lý   nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong các biến cố của cuộc đời.   Qua môn giáo lý, học viên hiểu thâm sâu giá trị của mối liên hệ của mình   đối với Thiên Chúa.
 
 Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta cụ thể hóa nghệ thuật giảng dạy của Thiên   Chúa Cha. Các môn đệ cảm nghìệm trực tiếp giáo huấn của Ðức Kitô qua lời   nói và việc làm của Người. Các ngài đã cho chúng ta một hình ảnh về   cách giảng dạy của Người trong Tin Mừng. Những điểm sau đây về cách   giảng dạy của Người được thấy rõ trong Tin Mừng.
 
 Chúa Giêsu luôn đón nhận những người khác, nhất là người nghèo và người   tội lỗi, "như những người được Thiên Chúa thương yêu và tìm kiếm" (Sách   Chỉ Dẫn Chung về Giáo Lý, Số 140).
 
 Chúa Giêsu luôn trình bày chân lý và tình yêu của Thiên Chúa Cha cách trung thực.
 Người luôn bày tỏ một tình yêu nhạy cảm và mạnh liệt để giúp người khác thắng tội lỗi, và tôn trọng cùng nuôi dưỡng sự sống;
 
 * Người luôn mời gọi và thúc giục người khác để có "một cách sống   được trợ lực bởi đức tin vào Thiên Chúa, bởi niềm hy vọng vào Vương Quốc   và bởi bác ái với tha nhân" (Ibid.).
 * Người dùng tất cả mọi phương tiện truyền thông giữa người với   người, thí dụ, "lời nói, sự im lặng, ẩn dụ, hình ảnh, thí dụ, và nhiều   dấu khác nhau." (Ibid.).
 
 Ki Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ theo Người với hết trí khôn và tâm hồn,   Người truyền lại cho các ông nghệ thuật giàng dạy của Người như là   phương thức căn bản để chia sẻ trọn vẹn sứ vụ của Người.
 
 Ðến lượt Hội Thánh cũng theo nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha và   Ðức Chúa Giêsu Kitô. Theo một nghĩa nào đó, trọn đời sống của Hội Thánh   là một cuộc giáo dục về ÐứcTin.Như chúng tôi nói, Hội Thánh là Mẹ và  là  Thầy. Trải qua nhiều kỷ nghuyên Kitô, chúng ta tìm thấy sự phong phú  của  sư phạm giáo lý trong Hội Thánh: đời sống của các thánh và của các  giáo  lý viên; những cách sống đức tin Kitô và truyền thông đức tin cho  tha  nhân khác nhau, thí dụ như sách giáo lý, và những tập tài liệu đầy  những  phương pháp thực thi và bài học giáo lý.
 
 Nghệ thuật giảng dạy của Thiên Chúa Cha được tìm thấy trong tác động của   Chúa Thánh Thần nơi học viên hướng dẫn và đưa họ lại gần Ðức Chúa Cha   qua việc trở nên mỗi ngày một giống Thiên Chúa Con, Ðức Chúa Giêu Kitô   của chúng ta. Cứu cánh của tất cả việc dạy giáo lý là sự hiệp thông sâu   xa hơn với Thiên Chúa Cha được đạt tới nhờ trở nên giống Ðức Kitô mỗi   ngày một hơn. Học viên trở nên giống Ðức Kitô hơn tùy theo mức độ đáp   trả các sư thúc đẩy của Chúa Thánh Thần trong họ. "Vì lý do này," Sách   Chỉ Dẫn Chung về Giáo Lý kết luận, "không thể là thầy dạy nào về đức tin   nếu không phải là những người môn đệ tin chắc và trung thành của Ðức   Kitô và của Hội Thánh Người." (Số 142).
 Nghệ thuật dạy về đức tin, theo gương Thiên Chúa, có những đặc điểm sau:
 
 * nó giúp học viên trong mối liên hệ với Thiên Chúa mà qua đó Thiên   Chúa cứu chúng ta khỏi tội lỗi và giải thoát chúng ta để chúng ta yêu   mến Ngài và tha nhân; nghệ thuật giảng dạy đứctin nhấn mạnh việc Thiên   Chúa tự nguyện bắt đầu trong việc thương yêu chúng ta, phẩm giá của con   người như kẽ lãnh nhận tình yêu Thiên Chúa và sự đáp trả lại tình yêu  mà  sự bắt đầu của Thiên Chúa đòi hỏi con người;
 
 * nó tôn trọng mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Cha với nhân   loại: nguồn gốc thần thiêng của nó và việc thích ứng cách diễn tả cho   phù hợp vời hoàn cảnh của mỗi người và văn hóa. (Ibid,., Số 143)
 
 * nó quý trọng kinh nghiệm của Ðức Tin trong Hội Thánh;
 
 * "nó bắt ngồn trong các liên hệ giữa người với người và làm cho nó thành của mình qua tiến trình đối thoại." (Ibid);
 
 * nó dùng những dấu hiệu, nối liền lời nói và việc làm, việc giảng dạy và kinh nghiệm;
 
 * nó diễn tả "tình yêu vô tận của Thiên Chúa" và tìm thấy năng lực ở đó.
 
 Tóm lại, nghệ thuật dạy giáo lý chú tâm đến việc làm cho người thụ huấn   lớn lên trong việc nên giống Ðức Kitô, với Chúa Thánh Thần là Ðấng Trợ   Giúp và Hướng Dẫn. Nhờ làm thế, nghệ thuật dạy về đức tin là nghệ thuật   giúp người khác trờ về cùng Thiên Chúa Cha trong tình yêu và sự thánh   thiện của đời sống.
 
 Việc dạy giáo lý được thực thi bởi những con người dùng những phương   tiện loài người, nhưng lại là một sự tham gia vào sứ mệnh cứu độ của Ðức   Kitô, và hành động cứu độ của Thiên Chúa Cha. Cho nên, các giáo lý  viên  phải ý thức là họ trình bày chân lý đức tin, chứ không phải tư  tưởng  riêng của mình hay một hệ thống tư tưởng nào đó. Các giáo lý viên  sẽ  dùng một nghệ thuật giảng dạy cho phép họ đẩy mạnh việc gắn bó học  viên  hoàn toàn với Thiên Chúa và nội dung của sứ điệp Kitô làm cho việc  gắn  bó hoàn toàn với Thiên Chúa có thể thực hiện được. Họ cũng giúp  các học  viên phát trìển về mọi phương diện của đức tin: sự hiểu biết,  cầu  nguyện, và phụng tự, cùng đời sống nhân đức. Sau cùng, giáo lý viên  giúp  học viên biết dâng mình cho Thiên Chúa, nhất là trong "ơn gọi mà  Chúa  mời gọi họ." (ibid., số 144). Về điểm này, việc dạy giáo lý là  nguyên  tắc cơ bản cho việc tông đồ ơn gọi mà qua đó Hội Thánh giúp các  người  trẻ biết ơn gọi của mình trong cuộc đời và nắm lấy nó với cả con  người  của mình.
 
 Ðể kết luận, việc dạy giáo lý tìm cách bắt chước phương pháp sưphạm của   Thiên Chúa Cha là đấng tìm cách liên lạc với con cái của Ngài qua những   kinh nghiệm khác nhau trong đời sống họ. Thách thức lớn nhất của việc   dạy giáo lý là tìm phương tiện truyền thông hoàn toàn kính trọng chân  lý  của đức tin và hoàn cảnh cụ thể của học viên. Nhờ làm thế, việc dạy   giáo lý giúp học viên biến đời sống họ thành một món quà tình yêu chân   thành và tinh tuyền cho Thiên Chúa Cha và tha nhân.
 
 Sự Ða Dạng của Các Phương Pháp
 Trong việc giảng dạy đức tin, Hội Thánh không dùng một phương pháp nào   duy nhất nhưng dùng nhiều phương pháp khác nhau miễn là chúng phù hợp   với phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, nghĩa là ldính liền với tín điều   về đức tin được giảng dạy. Qua nhiều kỷ nguyên Kitô, nhiều phương pháp   khác nhau đã được dùng tuỳ theo năng khiếu của cả giáo lý viên lẫn học   viên. Dù dùng phương pháp nào thì mục đích của việc dạy giáo lý luôn   luôn là một: giáo dục học viên về đức tin.
 
 Liên Hệ Giữa Phương Pháp và Nội Dung
 Nếu việc dạy giáo lý phải đúng với cả Lời Thiên Chúa lẫn học viên, thì   nội dung và phương pháp của việc`dạy giáo lý phải liên hệ với nhau cách   chu đáo. Thật là sai lầm khi cho rằng phương pháp không liên hệ gì đến   nội dung của đức tin được truyền đạt. Cách truyền đạt đức tin phải "đầy   đủ đối với bản chất của thông điệp, nguồn gốc và ngôn ngữ của nó, với   hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn giáo hội cũng như hoàn cảnh riêng củ   người tín hữu mà việc dạy giáo lý nhắm đến."(Sách Chỉ Dẫn Chung về Giáo   Lý,số 149a).
 
 Một phương pháp có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử lâu dài của môn   giáo lý và ngày nay. Ðó là phương pháp tài liệu trình bày về Thánh   Kinh, Kinh Tin Kính, Phụng Vụ và chính Hội Thánh. Nó là phương pháp có   thể xử dụng hữu hiệu phương tiện truyền thông đại chúng.
 
 Phương Pháp Tổng Hợp và Phân Tích
 Khi nói về phương pháp dạy giáo lý, người ta thường dùng từ tổng hợp   (quy nạp) và phân tích (suy diễn). Qua phương pháp tổng hợp, các dữ kiện   (lịch sử cứu độ, các nghi thức phụng vụ, lịch sử Hội Thánh, và các  biến  cố hiện đại) được trình bày để tìm ra sự liên hệ giữa chúng và mặc  khải  của Thiên Chúa về chính Ngài cho chúng ta. Phương pháp này đôi  khi được  gọi là phương pháp "sứ điệp Tin Mừng" vì nó rất phù hợp với  việc trình  bày chương trình cứu độ chúng ta của Thiên Chúa. "Sứ điệp  Tin Mừng" do  chữ "rao giảng" của Hy Lạp mà ra. Qua phương pháp sứ điệp  Tin Mừng, các  biến cố cứu độ, trước hết được rao giảng, rồi được đem áp  dụng vào cuộc  sống thường nhật.
 
 Phuơng pháp phân tích cố gắng trình bày các dữ kiện và giải thích chúng   theo căn nguyên của chúng. Nó không trái ngược với phương pháp tổng  hợp,  nhưng trong việc dạy giáo lý nó có thể có kết quả tốt khi dùng  chung  với phương pháp tổng hợp. Sau cùng, Mặc khải của Thiên Chúa về  chính  Ngài là sáng kiến của Ngài, và không thể hiểu được chỉ nhờ lý trí  con  người.
 
 Kinh Nghiệm Con Người trong Huấn Giáo
 Vị trí của kinh nghiệm con người trong việc dạy giáo lý phải được nghiên   cứu và lượng giá cẩn thận. Việc dạy giáo lý phải giúp học viên trở nên  ý  thức hơn về những cảm nghiệm của họ và lượng giá chúng dựa theo ánh   sáng của giáo huấn Hội Thánh. Nếu không, sẽ không giúp gì được các học   viên để sống một đời sống có trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa.
 
 Kinh nghiệm giúp cho người ta hiểu được các giáo thuyết đức tin. Chúng   ta nhớ rằng Chúa Giêsu dùng những kinh nghiệm khác nhau để dạy chân lý   Tin Mừng thế nào. Ðối với những kinh nghiệm cá nhân, đó là nơi mà Thiên   Chúa tự tỏ mình ra cho chúng ta, ngay như việc Ngài tỏ mình cách hoàn   hảo qua việc Thiên Chúa Con mặc lấy bản tính nhân loại của chúng ta.   Giáo lý viên có nhiệm vụ trọng đại trong việc giúp học viên nhìn đến   những king nghiệm sống hằng ngày qua nhãn quan của Tin Mừng và giáo huấn   Hội Thánh. Chỉ khi đó việc dạy giáo lý sẽ đưa đến một đời sống Kitô  sâu  xa hơn.
 
 Vai Trò của Trí Nhớ trong Việc Dạy Giáo Lý
 Qua việc dạy giáo lý, Hội Thánh truyền lại ký ức sống động của mình. Trí   nhớ giúp học viên thích ứng vào chính con người của mình chân lý đức   tin. Phải nhớ những gì? -- Những công thức tín lý chính yếu là ngôn ngữ   và văn hóa chung của tất cả mọi tín hữu. Hẳn nhiên là những công thức   này sẽ được ghi nhớ cách hiệu quả nhất sau khi các giáo thuyết liên hệ   đã được trình bày cặn kẽ. Xen kẽ vào những công thức tín lý, cũng cần   phải nhớ những câu Kinh Thánh chính yếu, những kinh nguyện quan trọng   trong Phụng Vụ Thánh và những king nguyện Công Giáo thông thường (Làm   Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính, Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Ăn Năn   Tội...).
 
 Sách Chỉ Dẫn Chung về Giáo Lý nói đến việc nhớ những công thức như những   bông hoa được lớn lên trong phạm vi hiểu biết đức tin cách sâu đậm  hơn.  Những công thức được ghi nhớ phải nhắc lại những kinh nghiệm cá  nhân và  cộng đoàn liên quan đến những công thức này.
 
 Vai Trò của Giáo Lý Viên
 không phương pháp nào có thể thay thế việc phục vụ của các giáo lý viên.   Người giáo lý viên đem đến cùng phương pháp các ơn Chúa Thánh Thần, là   một đời sống thiêng liêng và một nhân chứng của các nhân đức. Giáo lý   viên là một dụng cụ quan trọng mà nhở đó Lời Chúa đến với chúng ta. Vì   thế, "viễn tượng văn hóa, điều kiện xã hội, và cách sống" của giáo lý   viên "không thể là một trở ngại trên hành trình đức tin." (Sách Chỉ Dẫn   Chung về Giáo Lý, số 156b). Một giáo lý viên tốt sẽ ý thức một cách sắc   bén nhu cầu nuôi dưỡng chính đức tin của mình qua việc họ hỏi, và trên   hết, là cầu nguyện. Không cần phải nói thì liên quan cá nhân giữa giáo   lý viên và người được giáo hoá sẽ có một ảnh hường tích cực và sâu  đậm.
 
 Sự Tham Gia Tích Cực của Học Viên
 Ðể việc dạy giáo lý đạt được mục đích cao quý tối hậu, là sự hiểu biết   và lòng yêu mến Thiên Chúa sâu đậm, thì người thụ huấn phải được mời gọi   và khuyến khích đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa dành cho họ một cách   linh động. Một ít hình thức tích cực tham gia của học viên vào việc dạy   giáo lý là: cầu nguyện, các việc phụng tự chung, tham dự các Bí Tích   khác, các công việc liên quan đến công lý và hoà bình, đời sống nhân   đức. Việc dạy giáo lý phải giúp học viên sống những gì họ đang học.
 
 Cộng Ðoàn và Nhóm trong Việc Dạy Giáo Lý
 Cộng đồng các tín hữu đương nhiên là "một điểm cụ thể liên quan đến hành   trình đức tin của mỗi cá nhân." (ibid. số 158). Các người được dạy  giáo  lý nhìn vào cộng đoàn để tìm thấy bằng chứng về chân lý đức tin.  Trong  liên quan với cộng đoàn, cũng cần có những tiếp xúc giữa "người  với  người" trong vài lãnh vực chính của đời sống Kitô của chúng ta.
 Nhóm có thể giúp nhiều trong việc học hỏi đức tin. Ðối với trẻ em, các   nhóm giúp trong việc giao tiếp. Nhóm cũng giúp phát triển cá nhân của   trẻ em. Cuối cùng, toàn bộ học hỏi đức tin tỏ bày nhiệm vụ mà chúng ta   như một thân thể chia sẻ việc cứu độ thế gian.
 
 Những Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội
 Ðối với nhiều người, phương tiện truyền thông là "phương tiện chính yếu   để thông tin và giáo dục, để hướng dẫn và khuyến khích các hành vi cá   nhân, gia đình và trong xã hội nói chung." (Ibid, Số 160). Cho nên, việc   dùng các phương tiện truyền thông (truyền hình, truyền thanh, báo chí,   thu băng, thu hình và máy thubăng, máy phát đĩa nhỏ,...) phải được  dùng  chung với bất cứ phương pháp nào trong việc dạy giáo lý. Có những  phương  tiện truyền thông đắt tiền, nhưng nếu nhiều giáo xứ chung nhau,  thì giá  đắt thà nh phải chăng.
 
 Việc dùng các phương tiện truyền thông phải được đặt nền tảng trên kiến   thức, khả năng và sửa soạn. Về phương diện này, thách đố lớn nhất là  làm  cho nền văn hóa tạo nên bởi các phương tiện truyền thông được thấm   nhuần chân lý của đức tin.
 
 Các chuyên gia truyền thông nên được khuyến khích để dùng tài năng của   họ trong việc trình bày Tin Mừng. Các gia đình phải được giúp đỡ để dùng   các phương tiện truyền thông mà xây dựng đời sống gia đình, tránh dùng   truyền thông mà công kích gia đình. Các người trẻ được lớn lên với  những  phương tiện truyền thông hiện đại, và chịu ảnh hưởng nhiều bởi  chúng  phải được giúp đỡ để dùng chúng một cách hữu hiệu giúp các em lớn  lên  trong đức tin và thi hành đức tin
 
 
 Sưu tầm |  |