|
Ngày… tháng… năm…
Mình vào đời với hành trang không chỉ là tri thức mình thu nhận được khi còn ở trường học mà còn là ý thức về giá trị độc đáo của mình đối với xã hội và môi trường xung quanh. Hơn nữa, mình còn mang cả vô thức, tiềm thức chúng hình thành không chỉ do các gen của tổ tiên để lại nhưng còn là những ‘áp lực dồn nén’ từ bên ngoài khi mình còn ấu thơ in dấu ấn khó phai trong tâm thức mình. Thế nên, trong con người mình thực sự tồn tại hai ‘lực lượng’ đối kháng nhau, đúng như Đức Tông đồ Phao-lô đã cảm nghiệm được: ‘điều tốt tôi muốn làm nhưng tôi không làm, còn điều xấu tôi không muốn làm thì tôi lại làm’. Cái điều tốt ấy đã tiềm ẩn sẵn trong con người mình như một ‘ấn tích xót lại’ của hình ảnh Thiên Chúa (vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Ngài), để rồi cùng với sự lớn lên của mình, cái bản năng xác thịt cũng lớn theo tỷ lệ thuận với sự chiều chuộng cám dỗ từ bên ngoài khiến ‘ấn tích’ ấy không có cơ hội phát triển. Thế nhưng, ngay khi mình sống trong môi trường đạo đức nó giúp nuôi dưỡng hạt giống yêu thương của Thiên Chúa là ‘ấn tích’ đó, thì mình cũng không thể nói là tránh được sức tấn công của ‘vũ bão’ của sự dữ. Bởi vậy, mình luôn cần tái khám phá sâu hơn con người xung đột của mình để học biết ‘tỉnh thức và cầu nguyện’ trong lòng nhằm tránh sự ‘chiếm đóng’ của Cái Ác. Vì khi có xung đột trong con người mình là có sự phân ly, là giằng xé về phía hai cực Thiện hay Ác, là ‘nội chiến’ xảy ra. Làm cách nào có thể hóa giải cuộc xung đột nội tâm ấy? Phải chăng mình đứng về phe Thiện để chống lại cái Ác đang tiềm phục trong mình? Mình không thể yêu hai thế lực ấy, cũng không thể đứng về bên nào được. Bằng chứng là khi mình ham muốn làm điều tốt đẹp nhưng mình lại có những suy nghĩ xấu, ý hướng không ngay lành, vậy lúc ấy mình đứng về bên tốt hay bên xấu? Hay mình chiều theo ham muốn dục vọng và khinh chê những giá trị luân lý đạo đức nhưng lại áy náy về việc mình làm, lúc đó mình đang đứng về bên nào? Mình phải thừa nhận mình bất lực không thể hóa giải cuộc xung đột ấy. Chỉ có tình yêu đầy xót thương của Thiên Chúa mới giúp mình giải quyết ‘nội chiến’. Ngài nhìn tôi không một chút phán xét hay kết án. Và qua cái nhìn xót thương của Ngài, mình nhìn mình cũng bằng con mắt thương yêu hơn. Mình thừa nhận mình có những ý nghĩ, lời nói, việc làm xấu nhưng không vì thế mà mình ‘đổ dầu vào lửa’ để làm cho những điều xấu ấy bùng cháy hơn! Những điều xấu ấy mình phải yêu, vì chúng là một phần con người mình. Tâm hồn mình hỗn loạn thì làm sao mình an vui thanh thản được.
Chính Tình Yêu Thiên Chúa mới hóa giải con người xung đột của mình, mới giúp mình ý thức về sự bất toàn đáng yêu của mình để mình không còn công kích chính mình khi mình làm điều xấu, hoặc mình không tán dương mình khi mình làm việc tốt.
Ngày… tháng… năm…
Đức Giêsu đã để lại cho nhân loại giới răn yêu thương. Giới răn ấy luôn nhắc nhở con người mọi nơi qua mọi thời đại phải hướng đến đích viên mãn là Thiên Chúa Tình Yêu. Nhưng để làm cho thế giới tràn đầy tình yêu thì trước tiên tình yêu phải nhập thể nơi tôi, phải biến đổi tôi trước khi tôi yêu thương anh em. Cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu vẫn chưa thể nói là tôi đã hoàn toàn trút sạch tội lỗi trong con người tôi. Có thể nói rằng cảm nghiệm ấy là dấu chỉ cho tôi biết Chúa yêu tôi đến muôn đời. Tuy nhiên hiện giờ tôi còn đang sống trong thực tại nhân loại còn quá nhiều đau khổ tội lỗi nên hẳn nhiên tôi không thể thoát khỏi những ‘ảnh hưởng’ ấy! Có điều khi cảm nghiệm tình Chúa dành cho tôi, tôi sẽ thay đổi thái độ đối với tội, tôi không còn kết án hay thờ ơ tội lỗi nữa mà là ôm trọn nó trong yêu thương. Tội lỗi không làm tôi xa cách Chúa mà chính thái độ của tôi về tội. Ngay khi tôi được Chúa cho hiểu và cảm nghiệm điều này như một mặc khải lý trí thì thực tế con người toàn vẹn của tôi vẫn còn tội lỗi, ở nơi vô thức, tiềm thức và ý thức. Ý thức có thể nhận biết tội nhưng vô thức hay tiềm thức lại là nơi ‘tích trữ tội’, nên ý thức tôi rất dễ phản ứng trước những khích động tội lỗi của vô thức và tiềm thức. Nhưng khi tôi cảm nghiệm Chúa yêu tôi, thì tôi cũng ý thức rằng tình trạng tội nơi thâm sâu vô thức của tôi cũng đáng được Tình Yêu Chúa biến đổi. Ý thức tôi sẽ không kết án tôi khi tôi phạm tội do tiềm thức hay vô thức gây ra, vì tôi ý thức tình yêu Chúa dành cho tôi. Nhờ vậy, dù vô thức có dùng tội để khuấy động tâm hồn tôi thì ý thức tôi cũng ‘bình tĩnh’ đón nhận để chuyển hóa tội ấy chứ không gây chiến bằng những tư tưởng tốt đẹp mà ý thức tôi đã hấp thụ. Nói đúng hơn, tôi đã đón nhận cả phúc lẫn tội, nhưng vì chưa ý thức trọn vẹn, chưa tỉnh thức triệt để nên phúc tội ấy đã tạo ra ‘nội chiến’ trong con người tôi. Những lúc tôi thấy lòng bình yên thì không có nghĩa khi đó tôi an hòa thật sực. Kẻ thù và đồng minh của tôi chỉ tạm lui về ‘biên giới’ mỗi bên để dưỡng sức chuẩn bị chờ cơ hội gây chiến tiếp. Chỉ nhờ Tình Yêu Thiên Chúa vào cuộc mới có thể hòa giải, biến đổi tất cả ‘bạn và thù’ trong con người tôi nhằm hợp nhất tôi nên một, không còn phân chia hai giới tuyến tội và phúc nữa. Hòa bình giữa hai nước đều trang bị vũ khí hạt nhân rất khác với hòa bình không có vũ khí! Con người tôi cũng vậy.
Ngày… tháng… năm…
Giữa người và tôi có mối liên hệ mật thiết với nhau nên người khổ thì tôi cũng khổ. Tôi không thể nói rằng đau khổ của người không liên can gì đến bản thân tôi. Thế nên, có thể nói thờ ơ với khổ đau của tha nhân được xem như chứng bệnh biếng ăn vậy. Mà không chịu ăn thì càng dẫn tới bệnh trầm trọng, nên người thờ ơ với khổ đau tha nhân cũng là những người khổ nhất, có thể nói họ ‘khổ mà không biết mình đang khổ’, họ ‘sống mà như đã chết’. Trái lại, nếu tôi khổ cái khổ của người thì liền đó trong tôi phát sinh tình yêu, nhưng không phải tự tôi tạo nên tình yêu ấy mà chính Thiên Chúa Tình Yêu đã chuyển hóa khổ đau trong tôi thành tình yêu. Vậy là tôi cảm nghiệm được rằng cùng lúc đau khổ xuất hiện nơi tôi thì tôi cũng ý thức Tình Chúa thương tôi, và nhờ đó mà tôi đem tình yêu ấy đến với người khổ đau.
Ngày… tháng… năm…
Công trình cứu độ của Thiên Chúa nhiều lần bị con người trì hoãn với lý do rất chính đáng: tôi phải giúp người khác nhận biết Chúa. Khi tôi tưởng những việc làm ấy là thực hiện thánh ý Chúa thì thực sự tôi đang làm theo ý tôi. Nhiều khi mình lấy lý do rao truyền danh Chúa nhưng lại ngầm muốn làm nổi danh mình. Chúa muốn mình phải thay đổi trước rồi sau đó qua mình Ngài sẽ thay đổi người khác, nhất là những ai không tin vào Ngài. Vậy mà mình làm ngược lại là tìm cách thay đổi họ để họ chạy về với Chúa trong khi mình ngày một xa Chúa.
Ngày… tháng… năm…
Tách khỏi lịch sử mình sẽ không biết mình đến từ đâu. Lìa bỏ tương lai mình sẽ không biết đi về chốn nào. Nhưng nếu nhận hiểu giây phút sống lúc này đây, mình sẽ cảm nghiệm chiều kích thiêng liêng đã nối kết mình với tổ tiên và với muôn thế hệ sau. Thật vậy, nhìn vào bản thân, mình thấy mình mang ‘bản sao di truyền’ của tiền nhân, rồi ở tầng sâu vô thức liên thông với cái u uẩn của văn hóa tâm linh mà tiền nhân mình đã in dấu ấn, và hơn nữa, mình còn phải có ý hướng về tương lai nữa, nghĩa là trong mình tiềm phục sẵn những điều kiện của sự tạo sinh để khi gặp ‘duyên’ thì sự sống mới trồi sinh nó mang lấy trọn vẹn những gì thuộc về quá khứ và tiềm năng kiến tạo tương lai. Nếu mình không ý thức Thiên Chúa đã yêu mình từ khi mình chưa sinh ra thì cũng có nghĩa là mình tách khỏi dòng lịch sử và tiến về miền vô định của tương lai vậy. Bởi lẽ, Thiên Chúa là khởi đầu cũng như đích điểm nên trên ‘con đường hoạt động’ của Ngài, Ngài đã ôm trọn lấy tất cả sinh linh để luôn mang hình ảnh Ngài đến muôn đời. Điều này không có nghĩa mỗi cá thể nằm trong ‘guồng máy hoạt động’ sáng tạo của Thiên Chúa mà không có trách nhiệm ‘kiến tạo thế giới’, cai quản và bảo vệ địa cầu. Vì vậy, mình ý thức Tình yêu của Ngài ‘từ muôn thưở’ không có nghĩa mình phải truy tìm về nguồn gốc đích thực của mình, nhưng là nhận hiểu tình yêu bao la của Ngài đã và đang hoạt động thật sự giữa lòng nhân loại. Mình không ý thức điều đó thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến Thiên Chúa nhưng là ‘thiệt cho mình vì đã không kết dính với Tình yêu Ngài để được ‘sống và sống dồi dào’.
Ngày… tháng… năm…
Nhìn lá vàng rơi, đối với kẻ mải mê với công việc, với những lo toan cuộc sống cơm áo gạo tiền, chắc sẽ không thể khám phá ra ý nghĩa gì hết, nhưng với một người sống nội tâm sâu sắc thì chiếc lá ấy như có sức nặng làm bật dậy cái quy luật của tạo sinh, làm khơi nguồn cảm hứng bất tận cho hồn thơ trào dâng, làm rung động con tim đang thao thức tìm lẽ sống. Hiện tượng thiên nhiên ấy đưa ta về với ta, nuôi dưỡng tâm trí ta, làm cho ta lớn khôn hơn, đầy lòng quảng đại và tình yêu hơn, để rồi đến lượt ta, ta dùng khả năng trí tuệ và con tim mà ‘thổi hồn’ vào thế giới vật chất tự nhiên ấy, khiến choo vạn vật trở nên linh thiêng huyền nhiệm hơn.
Có thể nói thiên nhiên phản ánh đời sống nội tâm của mỗi người, đặc biệt về tình yêu. Thánh Kinh đã sử dụng rất nhiều hình ảnh thiên nhiên để nói về Thiên Chúa Tình Yêu. Hẳn là khi ý thức vai trò quan trọng của thiên nhiên trong đời sống, ta sẽ yêu từng phút giây sống hơn, nhất là nhận biết mình rõ hơn. Ta sẽ không còn chạy theo những lo lắng ưu tư riêng nữa mà biết mở lòng lắng nghe từng ngọn cỏ rung theo gió, từng chiếc lá xào xạc, từng tiếng thì thầm của núi đồi, từng lời ca dịu êm của sông biển. Như thế, tâm hồn ta sẽ hòa vào hồn non nước mà ở đỉnh cao là thể viên mãn thống nhất nên một không còn chủ thể và khách thể, không còn thế giới bên trong và thế giới bên ngoài nữa. Và chính Tình Yêu sẽ thúc đẩy ta vươn đến đỉnh cao ấy để từ đó ta có thể chiếu giãi Tình Yêu ấy ‘khắp tận cùng thế giới’.
Ngày… tháng… năm…
Tình yêu thể hiện ở sự lắng nghe. Trước hết, ta phải biết lắng nghe những người đã trải qua giai đoạn lịch sử đời họ để còn sống với ta hôm nay. Lắng nghe không với mục đích khẳng định hay phủ định điều họ nói những là nhìn nhận sự thật nơi họ cũng như nơi bản thân ta. Sự thật nơi họ là những giá trị sống họ sử dụng để sống một thời đã qua hẳn phải mang ý nghĩa nào đó để giúp ta nhìn nhận sự thật nơi mình. Ta có những giá trị sống nào để tồn tại trong xã hội ngập tràn tranh chấp xung đột hiện nay? Liệu với những giá trị ta đang sử dụng có giúp ta sống vững mạnh hơn không?
Mặt khác, ta còn phải biết lắng nghe những tiếng nói vượt thời đại như các tiên tri, ngôn sứ, thánh nhân, hay các bậc hiền triết, vì họ đã thắng lướt sự kềm hãm của thời đại họ sống để loan truyền chân lý cho mọi người qua mọi thời. Những tư tưởng của họ vẫn còn chi phối và ăn sâu trong tiềm thức cộng đồng. Bởi vậy, có thể nói họ vẫn còn sống trong ta và ta phải biết khám phá để nhận biết sự hiện diện ấy để có cảm hứng sáng tạo nên những giá trị mới đáp ứng nhu cầu thời đại ta đang sống.
Cuối cùng, ta lắng nghe những tiếng nói của lương tâm mình. Đó là nơi ta nhận biết những dấu tích đã in sâu trong tâm trí ta và làm nên con người ta hôm nay. Những dấu tích văn hóa, đạo đức, tôn giáo… ta thừa hưởng từ tổ tiên cũng như từ môi trường xã hội ta đang sống sẽ giúp ta nhận biết những vấn đề thời đại cách sáng suốt hơn.
Ba thái độ lắng nghe trên bắt rễ từ tình yêu, vì nếu không ta sẽ phản ứng tiêu cực hoặc thờ ơ với những tiếng nói thời đại. Tình yêu sẽ giúp ta đón nhận một cách vui tươi những giá trị mà người đi trước ta đã tạo ra nhằm kiến xây những giá trị mới, giúp cho cuộc sống hiện tại của ta thêm tươi đẹp và đầy ý nghĩa hơn. Tình yêu thổi luồng sinh khí mới cho những giá trị xưa để vực dậy tinh thần con người thời đại. Tình yêu giải thoát ta khỏi mọi ràng buộc để giúp ta mở lòng đón nhận tất cả ‘hồng ân’ của Chúa đang tuôn chảy trong dòng lịch sử nhân loại.
Ngày… tháng… năm…
Tình yêu giúp ta mở lòng đón nhận không chỉ tin vui mà còn tin buồn của thế giới. Dĩ nhiên sự thúc đẩy của tình yêu không đến từ bên ngoài ta nhưng chính trong nội tâm sâu xa của ta. Cũng như cỗ máy không thể đẩy chiếc xe từ bên ngoài thì con người cũng không thể yêu nếu tâm hồn mình không có tình yêu. Điều này đòi hỏi ta phải tái khám phá những nhu cầu cần thiết cho đời sống bản thân ta. Và ta sẽ thấy rằng tình yêu là một nhu cầu thâm sâu nhất mà nếu ta không đáp ứng thì ta cũng giống như người đói không chịu ăn vậy. Đáp ứng nhu cầu yêu thì cần phải nhận thức sâu xa rằng ta cần yêu và được yêu. Nhờ đó, khi ta yêu ai thì không phải vì mục đích nào đó nơi ta, nhưng vì sự sống bản thân ta. Ta không yêu thì ta sẽ chết! Cái chết của tâm hồn. Hồn chết rồi thì thân xác cũng không thể cảm nhận hạnh phúc được. Bởi vậy, những ai yêu thì thường họ quên mình, và như thế là họ tìm được chính mình vì họ đã đáp ứng nhu cầu yêu. Thế nên thái độ sống khép kín không chỉ thể hiện tâm trạng bệnh tật mà còn chứng tỏ dấu hiệu người đó ‘sống mà như đã chết’ vậy!
Trong việc đạo đức, nếu ta không có tình yêu, hay đúng hơn ta ‘ích kỷ thiêng liêng’ thì ta cũng dễ rơi vào tình trạng ‘sống dở chết dở’. ‘Sự ích kỷ thiêng liêng’ là mình làm các việc đạo đức mà không muốn người khác thực hiện, là mình muốn Chúa tha thứ cho mình nhưng lại không thích Ngài tha cho kẻ khác, là mình mê say với sự tĩnh lặng để hướng lòng về Thượng giới mà ghét bỏ những sự ồn ào náo nhiệt của ‘thế gian’… Xét thật lòng, mình muốn trở thành ‘vị cứu tinh’, ‘nhà đạo đức’, ‘bậc chiêm niệm’… để được người khác tán thưởng danh mình. Mình muốn nhận những lời khen chúc tụng tung hô của ‘thế gian’ để đảm bảo cho mình một vị trí trong xã hội cũng như trong Giáo hội, để mình trở nên ‘tiếng nói của Chúa Kitô’ dạy bảo người khác trong khi lòng mình lại chẳng thấm nhập những lời mình giảng rao ấy! Sự ích kỷ thiêng liêng sẽ cản ngăn tình yêu hoạt động sáng tạo!
Ngày… tháng… năm…
Dường như thế giới hôm nay bị phân chia thành hai ‘chiến tuyến’: vô thần và hữu thần, kẻ tin và kẻ không tin, người thực hành các việc đạo đức và người thờ ơ với các giá trị tinh thần… Mỗi bên đang ra sức hoạt động để chứng tỏ sức mạnh của mình. Tâm lý chung ấy đã ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội khiến người ta ngại nhận mình là kẻ tin, là người theo Đạo khi sống trong môi trường toàn những người vô thần; và ngược lại, những kẻ không tin cảm thấy chán ghét những màn trình diễn thiêng liêng quy tụ những người tin. Hai thái độ ấy đều rất cần cho việc thanh lọc đời sống tâm linh của con người thời đại.
Thật vậy, người tin và kẻ không tin đều có mẫu số chung là họ không biết thực sự đối tượng họ tin hay không tin. Tôi tin Thượng Đế, còn anh không tin thì phủ nhận Ngài. Nhưng cả tôi và anh đều không biết Ngài. Tuy nhiên, cái không biết của kẻ tin gắn liền với hành động, họ cứ đi nhưng không biết mình khi nào tới đích. Họ biết đích là Thiên Chúa nhưng càng đi họ càng xa cảm thấy mù mờ, chẳng biết Ngài đang ở đâu. Họ không biết nhưng vẫn đi, tức là liều lĩnh rồi. Sự liều lĩnh ấy chỉ có được do tình yêu thúc đẩy mà thôi. Tôi yêu Chúa thì tôi phải biết Chúa, muốn biết Chúa tôi phải kiếm tìm Ngài, nên tôi chỉ có thể tin Ngài sẽ chỉ dẫn tôi con đường đến với Ngài. Mà thật Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, nên tôi đi trên con đường là chính Ngài thì cũng là tôi sống trong Ngài và Ngài sống trong tôi. Nhưng vì tôi hữu hạn còn Ngài thì vô hạn nên tôi chỉ có thể tin vào sức mạnh yêu thương của Ngài sẽ cho tôi được ở trong Ngài. Và như thế tình yêu nơi tôi cũng là tình yêu Ngài dành cho tôi. Nhờ tình yêu ấy mà tôi đi như một ‘người hát rong’, ca vang Tình Yêu của Chúa, dù tôi chưa gặp Ngài. Đó là thái độ của kẻ tin. Tin vì yêu chứ không vì mình trở nên người này kẻ nọ. Vì yêu nên tôi lên đường dù không biết lúc nào tới đích.
Ngược lại, kẻ không tin thì dừng lại ở ngưỡng cửa ‘sự bất khả tri’, ‘sự không biết’ Thiên Chúa để quay về nhà với nét mặt buồn bã vì ‘anh ta có nhiều của cải không chịu bán cho người nghèo mà theo Chúa’. Kẻ không tin không biết Thiên Chúa nhưng lại phủ nhận Ngài. Họ tìm kiếm sự hiểu biết của ‘thế gian’ để chứng minh Ngài không hiện hữu, và sự hiểu biết ấy là một bảo đảm cho họ.
Yêu mạnh hơn biết. Tình yêu giải phóng ta khỏi những hạn hẹp của cái tôi, còn sự hiểu biết có thể nhốt ta trong ‘tháp ngà vị kỷ của tư tưởng’. Kẻ yêu dám xả thân vì người mình yêu, còn kẻ biết thì lo bảo vệ những quan điểm của bản thân. Khi yêu không phải ta chỉ chu toàn lề luật yêu thương Chúa dạy mà còn là lời đáp trả tiếng gọi Tình Yêu của Ngài, Đấng đã yêu ta trước khi ta sinh ra. Còn kẻ biết thì chỉ muốn bảo đảm, không thích đổi thay nên không thể nhìn thấy bên kia chân trời là vũ trụ rộng lớn mà sự hiểu biết của hắn chỉ là hạt cát!
Kẻ tin hôm nay không nên chỉ dùng lý luận của khối óc mà thuyết phục hay dẫn kẻ không tin đến với Chúa. Mình tin Chúa vì yêu Ngài, chứ không vì thứ hư danh bên ngoài, kể cả cái danh của kẻ tin Chúa. Mình tin Chúa thì cũng tin vào sức mạnh tình yêu của Ngài có thể biến sỏi đá thành cơm bánh. Bởi vậy mình không thể dựa vào tình yêu và lý trí của mình để nói về Chúa cho kẻ không tin, vì tình và lý của mình rất giới hạn. Đúng hơn, mình chỉ đánh thức tiềm năng yêu thương nơi họ bằng tình và lý của mình để nhờ đó họ nhận ra mối tình cao sâu hơn là Thiên Chúa Tình Yêu.
Làm chứng cho đức tin Kitô giáo không phải là làm chứng về một học thuyết mà là Tình Yêu Thiên Chúa. Nên mình mang danh nghĩa là kẻ tin thì phải sống tràn đầy yêu thương mỗi giây phút trong đời.
Ngày… tháng… năm…
Người ta không thể yêu người mà không yêu Chúa! Yêu Chúa không chỉ là tôn thờ Chúa, vì tôn thờ còn pha chút kính sợ, chứ đã yêu thì chỉ kính trọng tin tưởng thôi. Tình yêu sâu hơn sự thờ kính. Nói đúng hơn, thờ kính Chúa là một biểu hiện tâm tình thảo kính của con đối với Cha, vượt xa những lễ nghi hình thức.
Yêu người là biểu hiện lòng yêu Chúa, nhưng không vì thế mà tôi nói tôi yêu người là đủ. Một khi tôi chỉ yêu người thì liền đó là các mối xung đột nội tâm xảy ra vì tôi phải đối diện với nhiều loại người khác nhau. Khi tôi chỉ yêu người thì dần dần tình yêu ấy bị giảm trừ thành những công việc thuần túy mang tính ‘vật chất’, tính ‘hành chính’ mà không thấm nhiễm ‘sự sống’ nó là nguồn sức mạnh tình yêu. Khi tôi chỉ yêu người thì tôi sẽ phải đáp ứng liên tục những nhu cầu của người trong khi khả năng tôi giới hạn. Khi tôi chỉ yêu người thì gặp người phản bội, tôi sẽ dễ trở nên cô đơn nhất, không còn biết nương tựa vào đâu. Chỉ khi yêu Chúa sâu xa tôi mới yêu người cách trọn vẹn, tôi mới không bị những chuyện con người cuốn hút, tôi mới tự do hoạt động phục vụ người mà không dính bén vào những danh vọng ‘thế gian’, nếu cần tôi có thể ‘bỏ mặc người ta’ mà ở lại với Chúa trong sâu thẳm lòng.
Ngày… tháng… năm…
Thiên Chúa đã nhập thể làm người, mang thân phận kẻ bị áp bức, bị loại trừ. Đó không phải là chiến thuật nhằm kêu gọi quần chúng chống lại tầng lớp cai trị, tầng lớp trí thức thượng lưu. Đó cũng không phải là sự tranh thủ lá phiếu cử tri mang tính chính trị nhằm dành lấy quyền lực khỏi tay kẻ cầm quyền. Không! Thiên Chúa làm người và chọn những người thấp hèn nhất là để ‘nâng họ lên’ vị trí làm Con Chúa. Những người thông thái, giàu sang, quyền lực đã được chúc phúc, đã được hưởng phần thưởng rồi. Có thể nói họ là ‘những tinh hoa’ trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Tiếc thay, ‘trái cây trí thức’ ấy đã khiến người ta trở nên ‘vô minh’ không còn nhận biết Thiên Chúa, loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống để chỉ còn khẳng định những giá trị tri thức khoa họ chúng sẽ cải biến xã hội và cải tạo thiên nhiên tốt hơn. Những ‘người trí thức’ ấy đã quay lưng lại với Thiên Chúa để hướng về những vị thần sáng tạo của họ. Thay vì bằng tài năng sáng tạo được Thiên Chúa ban cho, họ phải biết ‘cúi xuống’ để nâng người an hem mình lên xứng với phẩm giá con người thì họ coi những người đó như trở ngại cho quá trình phát triển xã hội, tự nhiên, đúng hơn cho sự tiến hóa loài. Và Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách chọn những người thấp hèn! Đây là chiến lược nhằm thần hóa con người trở nên con Chúa. Thực hiện chiến lược của Chúa, người có đức tin cũng phải chọn cách Chúa làm là ‘cúi xuống’ phục vụ ‘những người khốn khổ’ hoặc theo ‘thế gian’ để ‘nâng mình lên’ bằng tài năng, quyền lực, tiền bạc…
Nếu như giai đoạn tiến hóa vật chất hướng đến đích nhắm là con người mà nhờ đó con người biết khám phá ra các quy luật tự nhiên, xã hội, nhằm phục vụ cho cuộc sống, thì giai đoạn tiến hóa tâm linh chính là hướng tới những ai ‘đói khát sự thật’, những ai ‘bị bắt hại’, bị tù đầy, khổ đau… Ở giai đoạn này, Thánh Thần Thiên Chúa sẽ làm việc chứ không còn là các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội nữa. Tình Yêu Thiên Chúa sẽ thấm nhiễm từ ‘hạ tầng cơ sở’ là nơi phần đông nhân loại đang sống trong đau khổ để tiến tới ‘thượng tầng kiến trúc’ là nơi con người thông phần vào mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô để cùng được sống lại với Ngài ‘trong vinh quang Đức Chúa Cha’.
Ngày… tháng… năm…
Nhu cầu được yêu khi mạnh hơn nhu cầu yêu sẽ dễ dẫn mình đến đòi hỏi, bảo vệ quyền lợi của mình, muốn người khác thực hiện ý mình, không chấp nhận chia sẻ lợi ích với tha nhân… Ngược lại, khi nhu cầu yêu mạnh hơn nhu cầu được yêu thì mình thường thích cho đi mà không muốn đón nhận vì sợ mình trở nên yếu đuối dưới mắt đối tượng yêu, hay sợ mình lệ thuộc vào họ… Cả hai nhu cầu trên xuất phát từ sự khích động của cái tôi. Cái tôi muốn thỏa mãn nhu cầu nên nó gây xáo trộn tâm trí khiến mình lo âu, buồn phiền, chán nản vì không ai quan tâm tới mình, vì người ta bỏ rơi mình, quên mình; hoặc mình sung sướng, vui cười vì mình đã làm được việc gì đó giúp ích cho tha nhân, mình được người ta khen là người tốt… Khi nhu cầu của cái tôi được thỏa mãn thì liền đó nảy sinh những hình ảnh về con người mình. Mình muốn được yêu nhiều nên sợ mất đối tượng yêu mình. Mình muốn trao ban nhiều cho đối tượng mình yêu để họ luôn là ‘của mình’. Vì vậy nhu cầu yêu và được yêu có thể phát sinh những quyến luyến, những ảo ảnh về tình yêu. Thế nên thỏa mãn nhu cầu yêu và được yêu không phải bằng quyến luyến lệ thuộc vào người khác, mà là từ bỏ những hình ảnh do cái tôi tạo ra từ nhu cầu ấy. Ở đây, yêu quên mình không có nghĩa là bám dính vào đối tượng yêu, nhưng là không để cái tôi của mình tạo nên những ảo ảnh về đối tượng yêu. Chẳng hạn, mình sẵn sàng hy sinh quên mình vì họ nhưng là để thỏa mãn cái tôi muốn được khen ngợi, muốn được bảo đảm. Chấp nhận được yêu cũng đòi hỏi sự quên mình luôn, vì mình sẽ dễ phản kháng trước thực tế bất lực của mình, phải cậy nhờ vào người khác, mình sẽ dễ nổi loạn khi mình ở trong tư thế kẻ nhận. Bởi thế được yêu thì cũng phải quên mình, nhưng không có nghĩa mình đón nhận tình yêu người khác một cách thụ động, mà là chủ động mở rộng tâm hồn mình nhận lấy tất cả những tình cảm người ta dành cho mình, không phân biệt người cho nhiều hay ít, cũng không quyến luyến với đối tượng cho mình nhiều thiện cảm. Chủ động mở lòng đón nhận yêu thương là cách thức quên mình khi mình được yêu!
Ngày… tháng… năm…
Đối với Thiên Chúa ta không thể nói mình yêu Chúa nhiều hay ít mà chỉ có thể nói mình hiện diện với Chúa thế nào trong cuộc sống. Bởi lẽ tình yêu là sự hiện diện giữa hai ngã vị chứ không phải là lượng vật chất có thể cân đo đong đếm. Thế nên, tôi yêu Chúa là tôi hiện diện với Ngài, sống với Ngài mỗi ngày. Dĩ nhiên tôi cũng không thể lấy lượng thời gian ra đong đo tình yêu ta dành cho Chúa. Vì thời gian đâu thể đong đếm! Tôi không thể nói mỗi ngày tôi dành bao nhiêu tiếng để cầu nguyện, trò chuyện kết hiệp với Chúa! Thật thế, vì có lúc ta dành nhiều thời gian cho các việc ấy nhưng không phải là hiện diện với Chúa mà tôi chỉ hiện diện với tôi thôi. Nghĩa là, tôi nói nhiều trong giờ cầu nguyện. Tôi để tâm trí đi hoang tìm kiếm những tư tưởng, hình ảnh, kỷ niệm của quá khứ. Tôi để mặc Chúa đang ngóng chờ tôi trở về như Cha già chờ đứa con đi hoang vậy! Tôi chưa yêu Chúa dù chỉ một giây phút thôi nếu tôi không hiện diện bên Ngài.
(Còn tiếp) |
|