3. CHỨNG NGHIỆM ĐOÀN SỦNG QUA CÁC THẾ KỶ
-------------Ai đọc Thánh Kinh cũng đều thắc mắc: Tại sao lúc đầu đoàn sủng được ban dồi dào như thế rồi ngưng dần lại qua các thế kỷ? Thánh Gioan Kim Khẩu tự nêu lên câu hỏi ấy và gượng trả lời như sau: Giáo Hội nguyên thủy cần được ưu đãi như thế để tạo một cái đà cho việc truyền giáo. Tóm lại, đó là một tình trạng ngoại lệ. Trả lời như thế thì y ếu và tỏ ra lúng túng. Thực ra hiện tượng đoàn sủng chưa bao giờ biến mất khỏi Giáo Hội Thánh Thần luôn trung kiên ở với Giáo Hội.

-------------Vào cuối thế kỷ thứ hai, thánh I-rê-nê còn nhận thấy các đoàn sủng đặc biệt vẫn xuất hiện thường xuyên trong Giáo Hội như là những hiện tượng cộm nổi, ai cũng biết. Thánh nhân viết: «Nhiều anh em trong Giáo Hội được ơn tiên tri, nhờ Thánh Thần nói được đủ mọi thứ tiếng, nói ra những điều bí mật của nhiều người để sinh ích cho họ và để giải bày mầu nhiệm Thiên Chúa». (Adv. Haer. V.6,1)

-------------Dần dần văn học tôn giáo trở nên cẩn trọng hơn với chủ đề này: trong cộng đoàn Giáo Hội, các biểu lộ của Thánh Thần ngày càng khó thấy hơn vì đức tin đã suy giảm, và ngày càng có nhiều người chỉ nhìn Kitô giáo dưới khía cạnh xã hội. Người ta không còn thấy Thánh Thần biểu lộ nhiều như trước. Tuy nhiên Thánh Thần vẫn còn biểu lộ một cách rõ ràng ở những nơi sống đức tin mãnh liệt, nghĩa là trong những môi trường hạn hẹp hơn của các đan sĩ nam nữ, đặc biệt trong môi trường của những vị sáng lập các dòng tu.

-------------Ban đầu, đan tu quả thật là một phong trào đoàn sủng. Sự khổ hạnh mà phong trào này đề cao được xem như chiến thắng của Thánh Thần trên các thế lực tăm tối của thế gian, xác thịt và ma quỷ. Tất cả các áng văn trong các Truyện Tích Các Giáo-Phụ đầy dẫy những ơn tiên tri, ơn làm phép lạ, đặc biệt là ơn chữa bệnh. Đằng sau hình thức diễn tả bóng nổi và ngây thơ của thời đại lúc ấy, người ta cảm nhận được rằng các Kitô hữu những thế hệ xưa đã tin bằng một đức tin sống động và mạnh mẽ vào việc xức dầu để lãnh nhận Thánh Thần và vào các ơn huệ của Ngài.

-------------Những đan sĩ đích thực được nhìn nhận như là những linh phụ có khả năng hướng dẫn kẻ khác trên con đường của Thánh Thần. Đặc biệt trong truyền thống phương Đông, dân Kitô giáo vẫn coi các đan sĩ là những người khôn ngoan hướng dẫn tâm linh, và họ tự nguyện đến tham vấn những vị ấy.

-------------Bàn về chính các đoàn sủng, các tác giả sách thiêng liêng nhấn mạnh rằng người ta cần dùng trí tuệ cẩn thận suy xét và không bao giờ nên xem các ơn huệ là cùng đích mà là những phương tiện để thực hiện Đức Ái một cách tích cực hơn. Người ta không tranh cãi về sự hiện hữu của các ơn huệ ấy. Qua các thời đại, ngoài những thời kỳ phản ứng chống lại những lợi dụng của các giáo phái, hàng giáo phẩm luôn biểu lộ một thái độ nói chung là tích cực đối với vấn đề đoàn sủng. Các mục tử như thánh A-tha-na-si-ô hay thánh Ba-si-li-ô từng dựa vào các đan sĩ để ủng hộ công cuộc canh tân tôn giáo.

-------------Vào thế kỷ 11, một đan sĩ nổi tiếng ở Cons-tan-ti-nô-pô-li là thánh Si-mê-on, được gọi là một thần học gia mới, đã lên tiếng bằng một lối nói đầy tính đoàn sủng. Đối với thánh nhân, lễ Hiện Xuống luôn luôn hiện thực, chính Thánh Thần nối kết chúng ta với Đức Kitô và dẫn chúng ta tới Chúa Cha, sau khi nhờ lòng ăn năn chúng ta đến được ánh sáng của Thánh Thần trong tâm hồn. Theo thánh nhân, chỉ những ai cảm nghiệm được Thánh Thần mới có thể thực sự hướng dẫn kẻ khác, dù người đó có là giáo dân hay không.

-------------Mặc dù ở phương Tây truyền thống Thánh Thần ít được nhấn mạnh hơn, nhưng niềm tin vào Thánh Thần cũng vẫn sống động, đặc biệt trong đời sống các vị sáng lập dòng và đời sống các thánh nhân. Thánh Ignatiô Loyola, và nhiều vị khác, từng viết những trang sách về linh thao. Trước và sau thánh Ignatiô, có các thần học gia và các tác giả sách thiêng liêng khác đã phân tích các ơn huệ và hướng dẫn cách sử dụng những ơn ấy. Thánh Gio-an Thánh Giá và Thánh nữ Tê-rê-xa ở A-vi-la có thể quan niệm khác nhau về vai trò của ơn được an ủi hay những biểu hiện khả giác của đời sống tâm linh -Thánh Tê-rê-xa quan niệm một Kitô giáo gần với tâm tình bình dị của con người hơn thánh Gio-an Thánh Giá- nhưng cả hai đều chứng nghiệm về Thiên Chúa hết sức sâu xa.

-------------Để thấy được rằng các đoàn sủng phi thường vẫn còn hiện diện tới ngày hôm nay, nên đọc lại cuộc đời các vị thánh gần gũi chúng ta hơn. Đọc lại kỹ lưỡng cuộc đời các vị thánh – chẳng hạn Cha Sở giáo xứ Ars, thánh Don Bosco và bao vị khác – giúp chúng ta thấy các đoàn sủng xuất hiện là sự kiện không thể chối cãi được: ơn suy xét, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh… Như vậy, người ta có thể quả quyết rằng các đoàn sủng không chỉ là hiện tượng xa xưa, mà còn rất mãnh liệt trong thời hiện đại. Vấn đề quan trọng là phải khát khao, khám phá, tập sống và cảm nghiệmmới thấy sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần ngay trong cuộc sống thường ngày của mình.

4. SỰ PHỤC HỒI TẠI CÔNG ĐỒNG

-------------Đối với đoàn sủng, Công Đồng luôn có thái độ đón nhận và cởi mở. Trong một đoạn văn rất quân bình, Công Đồng dù rất cẩn trọng đã nhìn nhận tầm quan trọng luôn luôn hiện thực của đoàn sủng. Chúng tôi mạo muội thêm rằng: hiện thực hơn bao giờ hết.
Sau đây là hai đoạn văn căn bản của Công Đồng:
-------------1. Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 12:
-------------«Hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóahườngdẫn dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các thừa tác vụ và trang bị họ bằng các nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát ân sủng đặc biệt cho mọicấp bực các tín hữu “phân chia ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài ” (1Cr 12,1), khiến người lãnh nhận ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo Hội như lời chép rằng: “Thánh Thần hiện diện trong mỗi người hầu mang lại lợi ích” (1Cr,12,7). Phải lãnh nhận những đoàn sủng này, từ các ơn chói lọi nhất đến các ơn thường mà nhiều người lãnh được, với lòng tri ân và yên ủi vì các ơn đó mang ích lợi và phù hợp với nhu cầu của Giáo Hội. Nhưng không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự sử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; Các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để trắc nghiệm và giữ lại những điều thiện hảo» (xem 1Tx 5,12 và 19-21).
-------------2. Giáo huấn ấy cũng được đưa ra trong sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân, chương 3:
-------------«Để thể hiện việc tông đồ này, Thánh Thần thánh hóa dân Chúa qua tác vụ và các bí tích. Ngài cũng ban cho các tín hữu những ơn đặc biệt (xem 1Cr 12,7), “Phân phát những ơn đó cho mọi người tuỳ ý Ngài ” (1Cr 12,11) để “mỗi người tuỳ theo ơn đã nhận mà giúp đỡ nhau” và chính họ trở nên như những người quản lý trung tín giữ mọi thứ ơn của Thiên Chúa (1Pr 4,10) hầu xây dựng toàn thân trong đức ái (x. Ep 4,16). Do sự đón nhận những đoàn sủng này dầu là những đoàn sủng thông thường, mỗi tín hữu có quyền lợi và bổn phận sử dụng những ơn đó trong Giáo Hội cũng như giữa trần gian để mưu ích cho mọi người và xây dựng Giáo Hội trong tự do của Thánh Thần, Đấng “muốn đâu thì thổi đến đó” (Ga 3,8) và đồng thời sử dụng trong sự hiệp thông với anh em trong Đức Kitô, nhất là với các vị chủ chăn của mình. Chính các Ngài có nhiệm vụ xét đoán về bản tính đích thực và việc sử dụng thích hợp những đoàn sủng đó, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để thử nghiệm mọi việc và điều nào tốt thì giữ lấy” (x.1Tx 5,12; 19,21)».
-------------Công đồng nhắc nhở dân Chúa lưu tâm tới các đoàn sủng và kêu mời họ ý thức hơn về sự hiện diện thường xuyên và chủ động của Thánh Thần trong Giáo Hội. Công Đồng cũng thực hiện điều này nơi những văn kiện khác – có tới 252 chỗ bàn về Thánh Thần trong các tài liệu Công Đồng – nhưng đặc biệt hơn là trong những đoạn nói về cải cách phụng vụ được Công Đồng khởi xướng. Đáng chú ý là trong các công thức đổi mới của việc cử hành phụng vụ và bí tích, Giáo Hội đã đặt vai trò thánh hóa của Thánh Thần lên hàng đầu. Trong chương tiếp theo, chúng tôi mong muốn độc giả lưu tâm điểm này để nhận ra rõ ràng hơn nữa hoạt động của Thánh Thần giữa chúng ta.