(tiếp...)

CHƯƠNG 7 ANH EM SẼ ĐƯỢC NHÌN THẤY

Gioan, nhà chiêm niệm, vén mở vài khía cạnh sâu xa trong lời mời gọi của Chúa Giêsu và vai trò của người môn đệ bối cảnh kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Ga1,35-51).
“Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.” (4 giờ chiều) (Ga1,35-39).

LỜI CHỨNG
CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Lời chứng của Gioan Tẩy Giả đã thu hút sự chú ý của hai môn đệ Chúa Giêsu. Cũng vậy, ngày hôm sau, Anrê đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình là Simon Phêrô, rồi Philipphê giới thiệu cho Nathanael. Lời mời gọi được nhân lên như một vết dầu loang, sử dụng mối quan hệ chính trị và gia đình…đôi khi Thiên Chúa gọi trực tiếp (Abraham, Phaolô). Thường thường, chúng ta nghe tiếng Người qua trung gian, những trung gian kết nối giữa Thiên Chúa và chúng ta có thể là: con người, sự kiện, đọc sách.
Samuel không biết Chúa đang gọi mình cho tới khi tư tế Êli phân biệt sự hiện diện của Thiên Chúa trong tiếng gọi huyền bí: “Hãy về ngủ đi, và nếu người ấy gọi con, thì con hãy trả lời: Lạy Chúa! Xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sml 3,9). “Đó là Đức Chúa” (1Sml 3,18).
Đáp lại, Samuel đã kêu gọi Đavid lên làm vua Israel và xức dầu phong vương cho Đavid. Tất cả các ngôn sứ là những người cưu mang Lời Thiên Chúa và chịu trách nhiệm về những việc thi hành thánh ý Ngài. Nhưng Thiên Chúa cũng giúp cho dân Ngài, dân vốn hay quên vai trò của mình ngay cả không tin vào Người, như trường hợp Kirô (Is 45,4-5).
Mỗi Tin Mừng, trừ Tin Mừng thánh Gioan đều làm chứng về những con người không được thấy kẻo họ tin. Thật sự, mỗi con người chúng ta đã nhận được đức tin và cảm mến ơn gọi của mình một cách đặc biệt nhờ vào người khác, qua nhiều trung gian. Sự cần thiết này không thể bỏ quên ngay ở ngưỡng cửa của đan viện. Chúng ta đã nhận được di sản của một truyền thống. Chúng ta luôn cần đến một sự linh hướng và nâng đỡ của một người anh em hay một vị linh hướng.

ANH EM TÌM GÌ?

Đây là lời đầu tiên mà Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng Gioan. Đó chính là vấn nạn đầu tiên Chúa Kitô đặt ra cho những người muốn đi theo Người.
Bề trên sẽ hỏi khi ứng sinh lãnh áo Dòng: “Con tìm gì?” Chúng ta nhớ lời thánh Bênađô rằng: “Ad quid venisti?” (Hỡi Bênađô! Ngươi đến đây để làm gì?). Đó là câu hỏi chúng ta cần đặt ra liên lỉ suốt đời chúng ta.
Tu Luật minh định rõ ràng rằng khi một ứng sinh muốn trở thành một đan sĩ thì cần hỏi xem động cơ và mục đích của họ là gì. Đây là một tiêu chuẩn “người ấy thật sự tìm kiếm Thiên Chúa” (Tu Luật1,8,6). Tại sao? Để cùng chết với Chúa Kitô và cùng sống lại với Người” (Tu Luật1,8,7).
Còn mọi lý do khác đều là phụ: xuất thân, kinh nghiệm xã hội, sự thông minh…tất cả đều liên quan đến con người của ứng sinh; hoặc vì đó mà tất cả có liên hệ tới mục đích của người ấy: cơ hội để học, tiến thân, sức khỏe, một sự tìm kiếm cảm giác bên ngoài thế gian, bất thỏa với thế giới hiện đại hay Giáo Hội ghét bỏ thế gian, yêu thích cô tịch, hy sinh từ bỏ, bình an và cả cầu nguyện.
Tìm kiếm Thiên Chúa liên lỉ có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta và làm cho chúng ta được an bình. Chính vì ý thức hay vô thức họ đang tìm kiếm một điều gì đó làm cho mình bất mãn, họ vốn đã thất bại trong việc tìm kiếm sự hòa hợp tâm lý hay cảm xúc trong các đan viện. Thường thường họ bận rộn với việc thay đổi cách hành xử trong một vài hành động hời hợt bên ngoài: học hành, một nghi thức canh tân của Dòng…vv.
Các môn đệ trong Tin Mừng đã cất công tìm kiếm. Họ đang ở trong trường phái của Gioan Tẩy Giả. Gioan chỉ là một con người nhưng ông đã chỉ cho họ thấy ánh sáng chân thật. Vì vậy trước chúng ta nhiều người đã có khát vọng nội tâm được đánh thức trước khi họ biết rõ về Chúa Kitô. Thường thì họ được chịu phép rửa nhưng lại không thực hành; Giáo Hội mà họ biết đã không nói rõ cho họ về những gì họ đang dò dẫm. Đôi khi tìm thấy ánh sáng trong triết lý, trong cái đẹp, trong những khoa học tự nhiên hay giáo huấn huyền bí, trong các tôn giáo Đông Phương, Phật Giáo…và tất cả điều này điều giúp dẫn đưa họ đến với Đức Kitô bằng con đường mặc khải một vài tia sáng của mầu nhiệm Thiên Chúa. Gioan cho chúng ta thấy nguồn gốc của việc tìm kiếm này sẽ được tìm thấy trong Chúa Cha. “Tất cả những ai Chúa Cha ban cho Tôi đều sẽ đến với Tôi” (6,37). Và còn thêm: “Không ai có thể đến với Tôi nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (6,65).
Con đường này không phải lúc nào cũng mang lại kết quả. Vô số đạo lý, sự quyến luyến đối với tội lỗi hay sự kiêu ngạo tinh vi đều có thể phủ lấp khuôn mặt Chúa Kitô. Chúa Kitô có thể nói với “những người Do Thái”, trong mạch văn của Gioan, là loại môn đệ chống đối: “các ông sẽ tim kiếm tôi, nhưng các ông sẽ không tìm thấy tôi, và nơi tôi đi, các ông sẽ không đến được” (7,34). Họ khước từ nhìn nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ ra mù quáng.
Chúa Giêsu quyết định cho phép tình yêu của Ngài đến với chúng ta cũng giống như dự phóng của tình yêu này sẽ đến nhờ đáp trả trong sự tín thác vào tình yêu. Quyết định trái nghịch làm cho một người mù quáng trước ánh sáng và vì thế người ấy sẽ ở trong bóng tối của sự không tin và thiếu vắng tình yêu (1,5;3,19;12,35).
Đây là khả năng vô biên của chúng ta. Chúng ta có thể mở ra cho ánh sáng rực rỡ của tình yêu thúc đẩy khả năng yêu mến hoặc cũng có thể đóng mình trong hỏa ngục của một trái tim không muốn yêu. Muốn tìm thấy Chúa Giêsu, chúng ta cần phải theo Người, sống với Người, trong tất cả ý nghĩa của tình yêu và bám rễ sâu vào Người. Chúa Giêsu là mặc khải duy nhất và tuyệt đối của tình yêu và chỉ có tình yêu này mới có khả năng chiêm ngưỡng Người.
Có một sự kết hợp lớn lao nơi thánh Gioan. Dường như ngài chiêm niệm một thực tại duy nhất, thực tại mà chính ngài đã trình bày dưới nhiều thị kiến khác nhau, chúng ta không bao giờ thấu triệt hết được, tôi mãn nguyện với sự trình bày một cái nhìn dưới 3 góc độ của việc theo Chúa Kitô:
1.Thị kiến của Gioan; 2.Sự đồng nhất của Chúa Giêsu - Chúa Cha: môn đệ - Chúa Giêsu; 3.Hình ảnh các tông đồ những người Chúa yêu mến.

1. HÃY ĐẾN VÀ ANH EM SẼ NHÌN THẤY

VIỄN CẢNH CON NGƯỜI


Chúng ta hãy nhìn lại một chút viễn cảnh con người. Trước hết, chúng ta hãy nhớ rằng trong việc mở rộng thị giác, con mắt được thiết định cho ánh sáng: nó không nhận thức được các đối tượng nhưng ánh sáng phản chiếu từ các đối tượng. Đối tượng được nhìn rõ nhờ ánh sáng làm cho nó trở nên rõ ràng. Điều chúng ta nhìn thấy là ánh sáng hợp với đối tượng, một loại giao thoa, ở đó ánh sáng chiếm hữu mô thức của đối tượng và làm cho nó sáng tỏ. Đây là cách mà ánh sáng làm cho mọi vật trở nên hữu dũng.
Nếu đó là một vấn đề của con người, thì ánh sáng ngoại tại vẫn không đủ. Bởi tự nó không thể làm cho chúng ta hiện diện với người khác ngoại trừ đối tượng. Chúng ta có thể mang lấy mặt nạ luôn lộ ra một trạng thái trốn tránh hay khước từ ít nhiều có ý thức. Để được hiện diện như một con người, để được nhìn nhận như một chủ thể, chúng ta cần thực hiện một món quà tự nguyện của chính mình đối với cái nhìn của người khác. Món quà này là một sự trao ban của tinh thần cảm thông, nói cho cùng chính là tình yêu, được đặt trên nền tảng một hành động tin tưởng vào người khác. Ánh sáng sẽ quang toả từ nội tại.
Dưới góc nhìn của con người thì thật là quan trọng khi chỉ cho thấy viễn cảnh con người hơn là một chức năng giác quan và sinh lý. Nó có thể nhận thức nơi những gì có thể cảm giác được, những mối liên hệ thiêng liêng và liên kết chúng lại bằng sự ôm ấp. Trên hết, có thể thực hiện được đều này trong sự hiện diện của những dấu chỉ có thể thấy và nghe được của những người đang thể hiện mình một cách tự do và lời mời gọi của họ phản ánh một cách tích cực hay tiêu cực. Tất cả sự phong phú của trực giác và cảm giác con người đi vào lối cư xử nơi một cái nhìn thấu lòng dạ người khác, khi họ thể hiện ra ngoài. Muốn hoàn thiện thì cái nhìn này đòi hỏi một sự cởi mở rất uyển chuyển, một giá trị bền vững của sự ân cần, một sự tôn trọng sâu xa trước bí mật của người khác, và trên hết cần một sự cảm thông đối với sự thật của con người họ, nó được diễn tả trong sự đón nhận người khác thật sự như họ là: cái nhìn này cũng là một sự trao ban khiêm hạ của tình yêu và sự tin tưởng. Dưới góc độ khác thì có thể từ chối. Chỉ khi nào cả hai sự trao ban của tình yêu và sự tin tưởng gặp nhau để rồi mọi người nhìn thấy nhau trong sự thật.
Trong viễn cảnh con người, sẽ kéo theo con người toàn diện. Vì vậy mà chúng ta hiểu được rằng khả năng đón nhận anh em sẽ tỉ lệ thuận với việc đón nhận Thiên Chúa. “Ai không yêu thương anh em mà họ nhìn thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà không nhìn thấy” (1 Ga4,20). Vì ai có lòng trong sạch mới nhìn thấy Nước Thiên Chúa (Mt 5,8).

ĐỂ NHÌN THẤY THIÊN CHÚA
“Tận mắt” nhìn thấy Thiên Chúa, theo Isaia (52,8)[1] là khát vọng sâu thẳm nhất của Cựu Ước. Niềm nhung nhớ Thiên Đàng, trong toàn bộ Kinh Thánh, là ý thức về mất mát lớn nhất: tiếp xúc mật thiết và trực tiếp với Thiên Chúa. Tự bản chất con người hèn hạ không thể nhìn thấy Thiên Chúa và cũng không được sống. Đức Chúa là một Thiên Chúa ẩn mình, và cơn thịnh nộ của Người thật là đáng sợ. Tuy nhiên, con người vẫn không ngừng tìm kiếm nhan Ngài (Tv 24,6), và biết rằng không có hạnh phúc nào ngoài thực tại này. Lời cầu nguyện của Môsê trên núi Sinai là tiêu biểu: “Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài” (Xh33,18). Người phán: “Ta sẽ rút tay lại và ngươi sẽ xem thấy lưng Ta, còn tôn nhan thì không được thấy” (Xh33.23). Chỉ khi Chúa Kitô nhập thể, Thiên Chúa mới trao ban mình cho con người chiêm ngưỡng, đó là quà tặng lớn lao nhất của tình yêu Ngài. Hãy lắng nghe sự kính sợ trong lời chứng của Gioan: “điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và Đức Giêsu Kitô, Con của Người (1Ga1,1.3).
Lời sự sống, sự sống đời đời có thể chiêm ngưỡng, có thể nghe, gần gủi và có thể chạm tới. Chính vì những ý nghĩa cảm nếm được này mà Thiên Chúa đã mặc khải mình cho con người, Ngài cho con người được thông dự vào sự sống thiêng liêng của Ngài. Chính vì những ý nghĩa cảm nghiệm này mà con người có thể tiếp đón Ngài.
Tuy nhiên, nhận thức cảm quan là điểm khởi đầu cho nhận thức và kết hợp thiêng liêng với Thiên Chúa, nó chứa đựng một thực tại vô cùng cao cả, có khả năng thấm nhuần và biến đổi nó, và còn đòi hỏi đi xa hơn nữa trong sự thanh luyện triệt để.



MỨC ĐỘ NHÌN THẤY

Con người Đức Giêsu chính là trung tâm của thực tại. Mọi sự quy hướng về “chiêm ngưỡng Đức Giêsu” trong thực tại của thời khắc lịch sử. Nhưng “sự chiêm ngưỡng” này gồm nhiều cấp độ: nhận thức thị giác thô sơ, cái nhìn ân cần và kĩ lưỡng, chiêm ngưỡng thâm nhập sâu xa của đối tượng và thông hiệp với Ngài.
Tất cả những người đương thời của Đức Giêsu nhìn Ngài: các môn đệ, đám đông, những người Do Thái. Mọi người đều nhìn những dấu chỉ của Ngài. Trong cuộc thương khó, Philatô đã hai lần dẫn Ngài ra trước dân chúng “này là người ấy” (19,5). Binh lính đã nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” (19,37). Lời chứng phục sinh của Gioan chắc chắn được tăng thêm trong hình thức này: “Chúng tôi đã nhìn thấy Chúa” (20,18,25).
Trong mỗi trường hợp, “nhìn thấy” còn ở một mức độ khác và không đi vào nội tại. Cấp độ tối thiểu, có một đám mây mờ che khuất tầm nhìn, không thấy được: đây là những người Galilê, dù nhiều dấu chỉ đã được thực hiện trước mắt họ, họ vẫn không thấy Đức Giêsu là bánh chân thật (6,36,40). Có một sự bất thị của những người Pharisêu, họ nói: “chúng tôi thấy” (9,41). Thế gian khước từ nhìn thấy (15,24).
Ngay như con mắt của các môn đệ cũng không mở ra cho đủ trước mầu nhiệm vượt qua (14,7-9). Đến giờ của Chúa Giêsu mới làm cho họ nhìn thấy, giờ con người được tôn vinh (Ga12,23;17,1). Nó quan tỏa một ánh sáng nhất định xuyên suốt quá trình của Ngài.
Trong sự viên mãn, “nhìn thấy” của Gioan thấm nhuần dưới bề mặt của những sự xuất hiện đối với cấp độ nền tảng của hiện hữu, đối với nguồn ánh sáng mà nó chứa đựng, đối với sự kín nhiệm của đời sống nội tâm.

ĐỐI TƯỢNG “CHIÊM NGẮM”

Đối tượng chiêm ngưỡng của Gioan ở nơi đầu tiên xuất hiện vinh quang của Chúa Kitô. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (1,14). Vinh quang này là một thực tại mầu nhiệm nhưng nghịch lý. Đây là chiều kích thánh thiện khôn tả của Thiên Chúa trong sự bộc lộ[1] tự phát của nó.
Vinh quang tỏa chiếu và các môn đệ đã được chiêm ngưỡng nơi thân xác Giêsu, nơi một con người rất thật và cụ thể, nơi tất cả sự yếu đuối bẩm sinh của con người, bị khước từ cho đến chết. Đó là vinh quang của Con Một duy nhất, vinh quang xuất phát từ Chúa Cha và do đó cũng mặc khải Chúa Cha. “Ai nhìn thấy Thầy là nhìn thấy Chúa Cha” (14,9). Đây là mục đích tối thượng trong “chiêm ngắm” của Gioan: Chúa Cha.
Tất cả công việc của Gioan là một khoa sư phạm về “chiêm ngắm” thiêng liêng, quy hướng về “hình ảnh” Chúa Cha, đó là bản chất Con Một, hiện thân của Ngài rực rỡ trong ánh vinh quang của “giờ” đã định (13,31-32). “Chiêm ngắm” không phải là hệ quả của một sự khấu trừ đức tin mà xuất phát từ khía cạnh thánh thiêng nhận thức trong Chúa Giêsu. Đó là một vấn đề, đúng hơn là sự chiêm ngắm chân thật. “Nhìn thấy Chúa Cha” phải là một minh chứng thứ hai của sự chiêm ngắm cũng không ngụ ý một hình ảnh thị giác phụ (hay ở phía sau) con người Giêsu được thấm nhuần mục đích đi tìm Chúa Cha. Chúa Cha chỉ được nhận thức nơi Chúa Giêsu mà thôi. Vinh quang của Chúa Cha quang tỏa nơi vinh quang Chúa Con. Người môn đệ mở mắt nhìn con người Chúa Giêsu trong điều kiện con người của mình, xác thịt của mình, mở mắt nhìn mầu nhiệm và nhìn thấy thật sự, tuy nhiên một cách gián tiếp nhìn thấy Cha. Không nên hiểu điều này như một cảm nhận bất ổn hay tĩnh. Chính trong sự tuân phục vô hạn của Chúa Con mà tình yêu vô bờ của Chúa Cha và con người thật của Ngài tỏ hiện.
Ở đây chúng ta được chạm tới trung tâm của sự chiêm niệm Kitô Giáo trong sự tối giản và riêng biệt, bởi vì nó được bồi đắp hoàn toàn mới của mầu nhiệm nhập thể, sự kết hợp của con người và thiêng liêng, xác thịt và thần khí.

TA SẼ TỎ CHO MÌNH RA CHO NÓ

Xác định của Gioan dựa trên bản chất cụ thể của “chiêm ngắm” nảy sinh một vấn đề. Chúng ta đang ở giữa những người “không thấy mà tin” (20,29); phải chăng chúng ta được mời gọi để sống một đức tin không thấy?
Hẳn thật, sự hiện diện gần gũi và cảm được Chúa Kitô trong thực tại lịch sử như được sống nhờ chứng nhân đặc biệt trải nghiệm công trình đức tin. Tuy nhiên, viễn cảnh này còn dang dở cho tới khi mầu nhiệm Phục Sinh được chiếu sáng trong sự tưởng nhớ quá khứ. Khi Chúa Giêsu còn sống trên mặt đất, các môn đệ gặp khó khăn trong việc “chiêm ngắm” Ngài, có thể nói họ khó khăn trong việc hiểu con người thật của Ngài và nhận ra tương quan duy nhất của Ngài với Chúa Cha. “Thầy ở với anh em bấy lâu mà Philiphê, anh vẫn không biết Thầy ư?” (14,9). Nhưng lúc mặc khải vinh quang của Ngài qua thập giá và phục sinh – “một ít nữa” - một kỷ nguyên mới được mở ra. “Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, còn anh em sẽ nhìn thấy Thầy[1]; bởi vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống. Một ngày nào đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Cha Thầy và Thầy ở trong anh em” (14,19-20).
Thế gian sẽ không thể hiểu được Chúa Giêsu sau khi Ngài tử nạn (7,34; 8,21) bởi nó sẽ không bao giờ nhìn thấy được bất cứ điều gì nơi Ngài ngoài những khía cạnh tạm bợ bên ngoài. Các môn đệ nhìn thấy Ngài và nhận ra rằng Ngài ở trong Chúa Cha. Họ đã hiểu được những gì sau cùng của câu được nói ra[1], đó là tử nạn và phục sinh. Điều kiện trước hết cho sự hiểu biết này, thật sự để chiêm ngắm Chúa Giêsu, là một sự vắng mặt: họ không thể nhìn thấy Đấng đã về cùng Chúa Cha (16,7), một ít nữa. Một ít nữa này cũng bằng Triduum Mortis, dành cho Giáo Hội, kỳ hạn của thế giới trong thời gian.
Nhờ một huyền nhiệm sâu thẳm của tình yêu, mà sự vắng mặt của Chúa Giêsu, thiếu vắng khả năng nhìn trong giác quan con người, có khả năng tạo nên một hình thức gặp gỡ[1] và “chiêm ngắm” sâu sắc hơn. Những lần hiện ra chỉ là sự mở đầu cho một sự tỏ mình sâu xa và phổ quát hơn của mầu nhiệm Chúa Giêsu trong Thánh Thần dành cho mỗi môn đệ giúp họ tin tưởng và yêu mến.
“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy; mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến, Thầy sẽ yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy…Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy…nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều” (14,21.23.26).

CHIÊM NGẮM CUỘC BIẾN HÌNH

Sự hiện diện nội tại của Chúa Giêsu, tình yêu của Chúa Cha và hoạt động của Chúa Thánh Thần tạo nên một chiều sâu và một sự biến đổi khả dĩ hình thành sự chiêm ngắm để có thể nhìn thấy và không nhìn thấy ngay lúc đó. Chúng ta không còn được nhìn thấy Chúa Giêsu cách nhãn tiền như các môn đệ đầu tiên và chắc chắn chúng ta cũng không thể nhìn thấy Ngài như ngày xưa. “Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người như thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1Ga3,2).
Hiện giờ là lúc chúng ta chỉ nhìn thấy Ngài gián tiếp, qua trình thuật con người Giêsu lịch sử và cũng nhờ Thần Khí sinh động hoá sự sống của Giáo Hội. Trong chiều kích thiêng liêng, sự khác biệt giữa những người nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh và những người tin “mà không nhìn thấy” được nối dài trong đại phúc (“phúc lành”, “hạnh phúc”) của sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần của những người “chiêm ngắm” trong đức tin và đức mến, đồng thời biến con đường này thành thực tại siêu nhiên mà họ chiêm ngưỡng. Tình yêu chiêm ngưỡng sẽ đưa chúng ta đi vào thực tại[1]. “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga3.2), hiện giờ Tình Yêu đang cưu mang chúng ta để chúng ta biết yêu. “Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và chứng minh rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian…còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta: đó là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét, vì Đức Giêsu thế nào thì chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.” (1Ga4,14.16.17).
“Ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. (1Ga4.7-8).
Căn cứ vào điều này mà thánh Gioan đã trình bày chương trình cứu độ: nơi Thiên Chúa, yếu tính của sự sống là tình yêu, ánh sáng là sự quang toả của tình yêu này; nhãn giới về sự sống được Ngôi Lời nhập thể ban cho chúng ta, Ngài đã tái sinh chúng ta trong tình yêu.
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, mà cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con, để tất cả trở nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian đã tin rằng Cha đã sai Con.” (17,21-22).
Lời kinh thực tế cho chúng ta một thoáng nhìn để nhờ kết hợp với Đức Kitô, người môn đệ một cách nào đó nhận được dấu ấn của sự sống Ba Ngôi. Hiện giờ chúng ta đang đi về một cùng đích.

2. CHÚA GIÊSU VÀ CÁC MÔN ĐỆ:
CHÚA CHA VÀ CHÚA GIÊSU

Chúa Giêsu là mục tử đoàn chiên. “Ngài gọi đích danh từng con chiên” (được khắc “lên hòn sỏi trắng…một tên mới mà không ai biết được ngoài người đã nhận nó” (kh2,17) - ngay cả người biết cũng chỉ lờ mờ) “rồi anh dẫn chúng ra ngoài. Khi đã cho chiên ra hết, anh đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng biết tiếng của anh” (10,3-4).
Lòng người tự nhiên đã có khả năng nhận biết tiếng của Đức Kitô. “Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi cũng như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha như vậy” (10,14-15).
Tương quan giữa Chúa Giêsu và những người theo Ngài giống tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu. Bởi vậy, Chúa Giêsu là mẫu mực cho người môn đệ trong tương quan giữa Ngài với Chúa Cha. “Ai nói rằng: mình ở lại trong Người, thì phải đi trên con đường Đức Kitô đã đi” (1Ga2,6).
Chúa Giêsu đã sống như thế nào? Trong sự kết hợp mật thiết nhất của tình yêu với Chúa Cha: một sự kết hợp ‘tương tri’ (x.Ga10,14-15); một sự kết hợp của sự hiện diện hỗ tương: “Ngày ấy anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha và anh em ở trong Thầy cũng như Thầy ở trong anh em” (14,20); “Để họ nên một như chúng ta là một, Con trong họ và Cha trong Con, để họ hoàn toàn nên một” (17,22-23); một sự kết hợp hoàn toàn của ý chí.
Người môn đệ không thể làm được gì ngoài Chúa Giêsu, cũng như Chúa Giêsu không thể làm được gì ngoài Chúa Cha.
“Người Con không thể làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy” (5,19).
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (15,5).
Vì lương thực Chúa Giêsu là “thi hành ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người”, bởi vậy tình yêu của người môn đệ sẽ không thật nếu như không tuân giữ các lệnh truyền. “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết (yêu) Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…còn hễ ai tuân giữ các lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu thực sự trở nên hoàn hảo. Căn cứ vào đó, chúng ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa” (1 Ga2,3-5).
Tuy nhiên các lệnh truyền của Chúa Giêsu được tóm lại trong luật yêu mến (15,12-14). Do đó nhờ vào tình yêu này mà người ta nhận biết chúng ta là môn đệ (13,34-35). Lòng mến làm cho người môn đệ đáng được Chúa Giêsu yêu (15,9-10).
Ở đây chúng ta có thể trích dẫn diễn từ ly biệt hoàn toàn trong bữa tiệc ly. Nhưng chúng ta hãy bằng lòng với nội dung trong (Ga 15,7-17), và hãy để cho ánh sáng những lời này thấm nhuần con tim chúng ta. Không cần phải thêm gì vào diễn từ này nữa. (Những chữ cái trái nghịch cho thấy nhiều đoạn cũng ở trong tình trạng đối nhau).


CẦU A. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy
NGUYỆN ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em hãy xin, anh em sẽ được như ý.

HOA B. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là:
TRÁI anh em sinh nhiều hoa trái.
C. và trở thành môn đệ Thầy.

LÒNG D. Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
MẾN cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.

NIỀM E. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để
VUI anh em được hưởng niềm vui của Thầy và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

LÒNG D’. Đây là điều răn của Thầy: anh em
MẾN hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.


Tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
C’. Không phải anh em đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn anh em.

HOA B’. và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh
TRÁI được hoa trái và hoa trái anh em được tồn tại.

CẦU A’. Tất cả những gì anh em xin cùng
NGUYỆN Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.

CẦU NGUYỆN

THẦY Ở ĐÂU?

Bởi thế, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến cũng được mời gọi dâng hiến mạng sống mình bằng tình yêu như Chúa Giêsu đã làm (15,12-14;10,17-18). Nếu người môn đệ đi theo Người nơi cùng con đường để làm nên phần thưởng lớn lao nhất của đời sống mình, thì cuối cùng người ấy sẽ được đặc ân đến nơi Chúa Giêsu đang ở.
Chúa Giêsu sống ở đâu? “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy” (12,26).
Ngài còn thêm: “nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó” (14,3).
Trong lời kinh thượng tế: “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành” (17,24).
Muốn khám phá ra Chúa Giêsu sống ở đâu, thì phải đến nơi ở của Người. Nơi vinh quang của Người, đã có từ đời đời. Do đó chỉ ở câu kết thúc câu chuyện mời gọi các môn đệ đầu tiên mới thấy được ý nghĩa trọn vẹn của nó. “Ngài nói với họ: “Hãy đến mà xem”. Họ (tức các môn đệ) đã đến và thấy nơi ở của Người và đã ở lại với Người” (1,39).
Điều đáng chú ý ở đây là sự tương đồng trong tương quan trùng hợp giữa các môn đệ và Chúa Giêsu cũng như giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha cùng một lúc được minh định. Người môn đệ “được Chúa Giêsu thương mến” đã “tựa đầu vào ngực” Đức Giêsu trong bữa tiệc ly.

3. MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU THƯƠNG MẾN

Nhân vật[1] huyền bí này là mẫu mực của người môn đệ. Chúng ta thấy người môn đệ được định nghĩa rất rõ ràng trong thuật ngữ “thương mến” (15,8-10). Môn đệ hoàn thiện là người được Đức Kitô thương mến và phải trổi vượt trong tình bác ái. Người ấy được đặt cho tên gọi “môn đệ Đức Giêsu thương mến”, và sẽ không còn tên nào hay hơn nữa. Tên này diễn tả toàn bộ con người môn đệ. Ngài không xuất hiện trong trình thuật cuộc đời công khai của Đức Kitô trong Tin Mừng. Ngài xuất hiện lần đầu tiên trong tiệc ly, như là người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ngay nơi trung tâm của mầu nhiệm tình yêu và hy sinh. Chính là người mà Đức Giêsu đã tiết lộ bí mật đau đớn về Giuđa; người đã kể cho Phêrô. Sau đó, nhờ ngài mà Phêrô có thể vào được đến sâu thượng tế (18,15-16). Môn đệ duy nhất ở dưới chân thập giá trong giờ phút bóng tối bao phủ chính là ngài. Ngài đã nhận Maria làm mẹ mình và kể từ ngày ấy ngài đã rước mẹ về nhà mình (19,25-27). Maria và người môn đệ một cách hiển nhiên là tiêu biểu cho một Giáo Hội đang tin tưởng và yêu mến. Khi Maria Madalena loan tin ngôi mộ trống, thì ngài chạy ra mồ cùng với Phêrô. Ngài đã đến trước Phêrô. Phêrô đã vào trong mồ trước và thấy những băng vải đã được xếp lại, người môn đệ được yêu cũng đi vào và ngài đã nói lên xác tín của riêng mình rằng: “ông đã thấy và đã tin” (20,8). Trực giác nhạy bén, khuynh hướng tự nhiên đối với tình yêu, hiện diện trong bối cảnh hiện ra ở Biển Hồ Tibêria sau khi phục sinh. Trên bờ biển Đức Giêsu gọi các môn đệ đang ở trên thuyền của mình. Chính “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” đã nhận ra Chúa trước tiên khi các ngài đang bắt cá và người môn đệ kia đã nói với Phêrô: “Chúa đó!” (21,7). Dường như cuối cùng Đức Giêsu đã hứa ban cho ngài một số phận đặc biệt, khác biệt số phận của Phêrô. Chúa Giêsu phán với Phêrô: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến anh?” Câu nói bí ẩn này không chỉ nói về người môn đệ được yêu còn tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội qua lời chứng được lưu truyền trong Tin Mừng Gioan (19,35) mà còn một cách sâu xa hơn muốn nói lên rằng người môn đệ này tiêu biểu cho những con người chiêm niệm mà Giáo Hội không khi nào thiếu.
Người môn đệ được yêu được diễn tả bởi một tình yêu độc nhất và thấm nhuần đức tin, một thứ đức tin làm cho ngài biết quang toả Chúa trong lòng Giáo Hội (nơi con người Phêrô). Ngài ngụp sâu trong mầu nhiệm Thánh Thể và Thập Giá. Ngài được Đức Kitô thương mến với một tình yêu tách biệt và riêng tư. Đáp lại, con tim của ngài hoàn toàn hướng về con người Giêsu. Ngài đã tin và đã được chiêm ngưỡng. Ngài sẽ ở lại cho tới khi Đức Kitô quang lâm. Ngài đón nhận Mẹ Chúa Giêsu về chăm sóc - người Mẹ đã sinh ra một Chúa Kitô toàn thể.


CHƯƠNG 8 XIN VÂNG TRONG THỜI ĐẠI


Lời mời gọi của Thiên Chúa không phải là cái gì rõ ràng để có thể nghe được trong chốc lát và nó hoàn toàn hiện hữu trong dĩ vãng. Trong một thời điểm của đặc sủng chắc chắn chúng ta sẽ sáng suốt trước lời mời gọi, nhưng bản chất lời mời gọi là một Lời sáng tạo của Thiên Chúa, lời có từ đời đời. Ngay lúc đầu chúng ta ý thức về lời thì sự ý thức cũng không bao giờ làm cho lời bị hao hụt đi. Lời tiếp tục vang vọng xuyên suốt cuộc đời chúng ta. Lời vén mở đầy đủ ý nghĩa chỉ khi ta đánh thức toàn bộ lịch sử tính của đời ta. Tiếng đáp trả của chúng ta dành riêng cho lời mời gọi này; do đó, nó mở ra một câu chuyện, mà hệ luận của nó ta không thể biết trước được.
Chúng ta không nên nghĩ về một lời mời gọi như một thực tại được định trước trong dự phóng, được lịch trình hoá, một tờ đơn được đóng mộc bằng lời đáp vắn tắt của chúng ta do máy tính thực hiện để rồi nó tiếp tục làm cho cuộc đời còn lại của ta trở nên cứng nhắc. Thay vì chúng ta được mời gọi mỗi lúc để cho Chúa Thánh Thần cuốn hút, rồi luôn tiến xa hơn về phía trước trên con đường vô định.
Chúng ta nên có thái độ của một người được kêu gọi theo Thầy trong sự khởi đầu mỗi ngày mới. Như người tôi trung của Đức Chúa: “Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,4-5).
Sự thuần phục của ta đối với Thánh Thần được khắc sâu trong thời gian thể hiện một đức tin mạnh mẽ, một tiếng vâng dâng lên Thiên Chúa trong tinh thần phó thác, cởi mở và quảng đại. Ở đây một vấn đề nảy sinh: làm sao tôi có thể khấn được khi nhìn về một tương lai mà tôi không biết cũng không làm chủ được? Sự khấn hứa này có cản trở tác động của Thánh Thần, trì hoãn sự triển nở của đời sống ta hay không?
Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng trả lời vấn nạn này. Chính Người đã kêu gọi chúng ta bằng một lời chân thật, để ta trở nên quà tặng hoàn mỹ. “Anh em hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng…”. Thánh Thần là Đấng thúc bách ta. Vì Chúa mà chúng ta khấn, dù chúng ta không biết đích xác điều gì sẽ ràng buộc chúng ta. Vì vậy chúng ta chỉ có thể từ bỏ chính mình để thuộc về Thiên Chúa với sự tin tưởng tuyệt đối, biết rằng điều gì Người đã khởi sự thì Người cũng làm cho kết thúc tốt đẹp.

SỰ TRUNG THÀNH CỦA THIÊN CHÚA

Đó là khởi điểm Thiên Chúa kết ước với chúng ta. Và Ngài trung thành, một lòng chung thuỷ sắt son, đó cũng là nền tảng cho lòng trung thành của ta đối với Ngài. Đức Chúa là núi đá, là thành trì, là khiên che thuẫn đỡ. Sự trung tín của Người không lệ thuộc vào sự trung tín của chúng ta. Ngài không thể chối bỏ chính mình. Ngài vẫn trung tín dù ta bất trung bất tín (Rm 3,3). “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1Cr 1,9). “Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức” (1Cr 10,13).
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa mặc khải Ngài là Thiên Chúa hằng sống, Đấng hằng hữu và ở với dân Người trong các lần giao tranh của họ, như thế Đấng tỏ mình ra là Đấng trung thành với lời hứa và giao ước của Người (x. Đnl 7,7-9). Sự trung thành của Người chính là lòng nhân hậu khôn lường, với tình yêu vô biên. Sức mạnh của Thiên Chúa hàn gắn sự yếu đuối con người nhờ lòng thuỷ chung. Người đặt tất cả lý lẽ trái ngược như thế vào trong trách nhiệm của mình. Thiên Chúa chấp nhận phiêu lưu để có thể hòa hợp cả danh người và bản thân với một người bạn hay thay lòng đổi dạ. Thiên Chúa là Đấng trung tín, sự trung tín của Người là đặc điểm không chỉ của bản thể bất di bất dịch của Ngài, mà còn ở sự chọn lựa không thay đổi của Ngài trong thời gian nữa (Is 45,23). Ngài bày tỏ lòng trung thành qua hành động của Mình trong lịch sử, qua việc giữ lời hứa trong suốt cuộc đời và cái chết của Con Ngài. Sự trung thành này, Ngài tuôn đổ xuống từ đời đời và luôn mới. Cả bản thân Ngài cũng như lòng trung thành của Ngài đối với chúng ta là một mầu nhiệm và dù chỉ một vài khía cạnh được quang toả đã đủ là nguồn sự thán phục rồi. Đôi khi xem ra đi lòng vòng và viết nên những con đường ngoằn ngoèo.
Từ quan niệm mang tính nhân loại, con người là đối tượng cho thời gian trong nhận thức, mà thời gian thì trải dài, tiến lên và không có kết thúc. Nhưng con người chiến thắng thời gian, có khả năng thoát ra khỏi tầm kiểm soát của nó và bằng ý nghĩ con người có thể nối kết quá khứ với tương lai đồng thời theo đó, họ có thể làm chủ tương lai. Nhân loại vượt quá mức biến đổi và mang lại cho nó ý nghĩa. Sự trung thành của một người mang lại sự liên đới và ý nghĩa cho giây phút hiện tại. Trong sự tự phát của giây phút hiện tại, thì sự trung tín một cách nào đó không cần thiết, nó được ấn định một cách chính xác khi nó được tách riêng ra, nhưng trong sự khởi đầu chọn lựa và cuộc chiến sâu thẳm nhất của hữu thể: một trận đánh toàn thắng trên thời gian và điều đó mang lại sự thống nhất và kết nối mỗi cuộc đời. Đó là sự vâng phục tuyệt đối của Mẹ Maria. Nó trưởng thành hoá Mẹ như chính Ngôi Lời trải qua những năm tháng sống ẩn dật và đơn điệu tại Nazaret, qua sự suy niệm của Mẹ về những sự kiện khó hiểu trong cuộc đời Chúa Giêsu (dâng mình trong đền thờ, Ngài ở lại nơi ấy ba ngày giữa các thầy thông luật), qua con người toàn diện, con người sẵn sàng vâng phục để soi sáng sự trưởng thành trong sứ vụ công khai của Con Mẹ; qua sự dâng hiến đầy tin tưởng dưới chân thập giá; qua địa vị của Mẹ trong lòng Giáo Hội đang khi chờ đợi Chúa Thánh Thần. Nó trở thành một thể thống nhất khi hoa trái hoàn toàn chín muồi mà Đức Chúa đặt bên Người trong vinh quang.

NÊN HOÀN THIỆN MỖI NGÀY

Đó không phải là những khoảnh khắc được đề cao, những kinh nghiệm tôn giáo, thậm chí những rung động có thể xảy ra với chúng ta; vậy mà đó lại là điều quan trọng nhất trong đời sống đan tu của chúng ta. Quan trọng nhất là kiên trì cầu nguyện hàng ngày, vâng phục mỗi ngày trên con đường chúng ta đã chọn, tiếp tục mang lại sức mạnh để chúng ta sống cho Chúa hôm nay, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, tình yêu của Người suốt cả ngày sống. Một đôi khi sự liên tiếp này ẩn dấu mầu nhiệm đau khổ và nghèo khó. Thật khó mà bỏ lại cái mốt thời đại để sống cho Chúa trong việc từ bỏ mọi toan tính riêng, lúc nào cũng có thể nhớ tới lời mời gọi ở lại trước nhan Chúa để bày tỏ cuộc đời chúng ta, vì cái gì đã hiện hữu thì ở mãi trong hiện hữu. Kiên trì trong sự phó thác cởi mở, không xao xuyến, không cần chính kiến, không gì cả. Đây có thể là một sự diễn tả riêng tư nhất mối dây ràng buộc tình yêu đối với Chúa Kitô, với một đức tin căn bản. Chúng ta phó thác hoàn toàn cho Ngài bản thân ta vốn không điều khiển cũng như không thể điều khiển được, để Ngài thực hiện nơi ta điều Ngài muốn. Bởi vậy, thái độ này khiến chúng ta có thể luôn luôn tăng thêm sự từ bỏ những hiệu năng riêng mình để tạo nên dấu vết bản thân nảy sinh từ dấu vết sâu xa qua sự từ bỏ của Chúa Con dành cho Chúa Cha, và điều đó cho phép nhân đức cứu thế thấm vào nhân tính. Tình yêu là sự sống linh thiêng của Thiên Chúa Ba Ngôi.

CÂY

“Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa,
Và có Đức Chúa làm chỗ nương thân.
Người ấy như cây trồng bên Dòng nước,
Đâm rễ sâu vào mạch suối trong,
Mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì,
Lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,
Gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại,
Và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,7-8).

Trước khi hạt giống rơi xuống từ một cây, nó rất nhỏ và hình tròn, di chuyển theo đường xoắn ốc trong không khí, được mang đi nhờ sự vui nhộn của gió trong một điệu nhảy tuỳ tiện cùng với các hạt khác. Nó độc lập, tự do và lông bông dưới ánh mặt trời, đầy hứa hẹn và một chút gì vô trách nhiệm, chúng ta có thể nói như vậy. Từ đây, nó bay xa, nó nhìn thấy mọi sự bên ngoài, không kết nối với bất cứ điều gì trong chúng. Rồi đến một ngày, nó phải đảm nhận trách nhiệm về đời sống mà nó mang trong mình. Nó tìm được một nơi, nơi nó phải nảy mầm. Nó chôn vùi chính mình một cách đơn điệu trong lòng đất tối tăm. Nó ẩn mình đi. Dường như đã chết rồi. Nhưng không, nó đang trải qua một sự thay hình đổi dạng, lột xác. Nó lột bỏ vỏ bọc bên ngoài vẫn bao bọc nó thời thanh xuân, và bản chất sâu thẳm của nó được tỏ ra, không ánh sáng, dễ bị tổn thương, nhưng cũng vì đó mà nó có khả năng hấp thụ dinh dưỡng từ lòng đất bồi bổ cho sự sống của mình. Dần dần nó thích ứng được với hình thức tồn tại mới của mình. Bộ rễ được nảy nở đâm vào nguồn sự sống, nó tích luỹ sức mạnh từ đó, bản thân nó nảy mầm, triển nở, đồng thời ánh sáng cuốn hút nó. Một chồi non yếu ớt vươn lên về phía mặt trời để được sưởi ấm. Nó mọc những cành lá mới dễ thương. Nó không cô đơn. Nó nhìn thấy những cây non khác, là anh chị em đang triển nở quanh nó. Nó hít thở niềm vui trong cầu nguyện. Miệng nó len lỏi trong đất để hút nước trong bản chất của nó. Cành lá của nó vươn ra trong bầu trời để đón nhận mưa, hơi ấm và ánh sáng. Nó nối kết đất và trời trong một qui trình tổng hợp ánh sáng. Bản thân nó là lời nguyện cầu của chính nó.
Nó bám một cách vững chắc trong chỗ đứng của nó. Nó uốn cong mình trước gió nhưng có thể trở lại như trước. Nó thuận theo nhịp điệu của sự chết và sự sống, theo mùa màng một năm. Nó bị tơi tả trong những cơn gió mùa đông và bị suy nhược bởi cái lạnh và băng giá. Những cành mềm yếu của nó được khắc ghi hoàn toàn và che kín bầu trời. Nó tồn tại lâu dài trong giấc ngủ mùa đông, tự huỷ sự sống của mình, chờ đợi trong kiên trì.
Khi trái đất bừng tỉnh thì nhựa sống cũng chỗi dậy trong thân cây. Cây đâm ra những chiếc lá mới trở thành nơi cho chim trú ẩn. Chồi của nó xuất hiện, triển nở, đơm hoa kết trái dưới ánh mặt trời. Nó đã nhận điều nó cho đi với tất cả sự yếu đuối tầm thường, không phân biệt tốt xấu. Nó cho đi sự che chở để mọi sự được ở dưới bóng mát của nó. Khi trái của nó chín thì việc đầu tiên là sự thu hoạch chúng. Nó không giữ lại gì cho mình. Qua sự đơn sơ của bản thân, nó trở nên mềm dẻo trước những vụ mùa tàn bạo. Nó làm cho mặt đất quanh nó trở nên mạnh mẽ, ngăn cản sự xói mòn. Bản thể thuần túy nhất của nó truyền vào các hạt mà nó sản sinh ra, rồi lại bắt đầu đi vào một đời sống mạo hiểm. Nó không chống lại sự khởi đầu của một mùa thu. Nó trang điểm cho mình những sắc màu hòa nhã. Những chiếc lá rụng của nó che phủ mặt đất như thể tấm thảm đẹp lộng lẫy. Lại một lần nữa nó đi vào mùa của sự chết, một cách thầm lặng, với lòng tin tưởng, với một lời tuyên chứng cho sự kiên định trong Dòng chảy của thời gian.