|
|
(tiếp...)
CHƯƠNG 9 TRƯỜNG HỌC CHÚA THÁNH THẦN
CHÚA THÁNH THẦN
TRONG TU LUẬT CHÚNG TA
“Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần” (2Cr13,13).
Sự hiệp thông (koinonia, fellowship) của Thánh Thần: là sự thân tình, tình thương và đời sống trong Thánh Thần. Chúng ta hãy đọc đoạn văn đầu tiên của Tu Luật chú ý đến vai trò của Thánh Thần:
“Để ngợi khen vinh quang Thiên Chúa, Chúa Kitô, Ngôi Lời của Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần, từ lúc khởi đầu đã chọn một số người, Ngài muốn dẫn họ đi vào nơi cô tịch để rồi họ được kết hợp mật thiết với Ngài trong tình yêu. Vì vâng phục một tiếng gọi như vậy mà Linh Phụ Brunô cùng 6 anh em đã đi vào sa mạc Chartreuse vào năm của Chúa chúng ta, 1084 và kiên định ở đó; dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ngài và những con người tiếp nối các ngài đã được trải nghiệm, dần dần các ngài đã xây dựng được một hình thức đặc biệt của đời sống ẩn tu, rồi biết bao thế hệ tiếp nối, dù không một lời viết ra mà chỉ nhờ gương lành”
(Tu Luật 0,1,1).
Nhờ Thánh Thần mà Chúa Kitô đã chọn một số người, đưa họ vào nơi cô tịch hầu kết hợp mật thiết với họ trong tình yêu. Nhờ mau mắn đáp lại tiếng gọi này mà Thánh Thần đã kêu gọi họ, Người dẫn đưa Brunô cùng với 6 anh em vào sa mạc Chartreuse. Đó là sự sinh động trong trường học của Chúa Thánh Thần và từ kinh nghiệm ấy mà họ đã xây dựng và phát triển đời sống chúng ta.
Bên cạnh đó Tu Luật (Tu Luật 0,2,1) còn trình bày về Thánh Thần như là Đấng “đã ủy thác công việc biên soạn những khoản luật đầu tiên của Dòng chúng ta cho Guigô, viện phụ thứ 5 của Chartreuse.
Trong Tu Luật, chúng ta sẽ tìm thấy “cả hình thức lẫn nội dung của sự thánh thiện đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho mỗi người chúng ta”, những người được gọi để sống ơn gọi này, vả lại, không có Thần Khí thì họ không là gì cả, bởi vì “Thần Khí mới ban sự sống và Người không cho phép chúng ta chỉ dừng lại ở chữ viết” (Tu Luật 4,35-1).
Do đó, “thực sự chúng ta không thể vâng phục mệnh lệnh của các bề trên, và tuân giữ luật một cách trung thành trừ khi được Thần Khí thúc đẩy, lúc ấy chúng ta sẽ nếm cảm những gì thuộc về Thần Khí”
(Tu Luật 4.33-2).
Nhưng hàng rào của đan viện phải là đặc sủng: “bề trên…không xét đoán theo tiêu chuẩn con người, nhưng cùng với anh em lắng nghe Thần Khí trong nỗ lực chung là tìm ý Thiên Chúa” (Tu Luật 3,23,8). “Người ấy không nên hành động như thể những gì tốt bên ngoài là do mình, nhưng đúng hơn là nhờ sự vâng phục đối với Thần Khí mà người ấy phản chiếu tất cả tình yêu của Chúa Kitô” (Tu luật 3,23,19).
MỘT ƠN GỌI ĐẶC SỦNG
Các bản văn[1] làm cho ta ý thức về bản chất đặc sủng của ơn gọi chúng ta. Từ “charismatic” ngày nay nhắm đến mối liên hệ với một hành động đặc biệt gọi là “đặc sủng” và với những mặc khải tôn giáo mang tính chất phi thường. Tuy nhiên, charisma là một từ Hy Lạp để chỉ ân sủng. Có thể áp dụng cho tất cả ân sủng, như là mọi quà tặng của Chúa Thánh Thần được ban tặng cho những con người đặc biệt vì lợi ích của toàn thể. Chính hơi thở của Chúa Thánh Thần làm sinh động những thành phần của thân mình Chúa Kitô, và phát sinh những hoạt động cũng như những hình thức của đời sống thể hiện sức sống của Hội Thánh để rồi từ từ xây dựng Hội Thánh.
Tinh thần đan tu, đã có từ thế kỷ thứ 4, hình thành như một hành động mang tính đặc sủng. Dù hiện hữu lâu đời song vẫn luôn là thực tại sống động cả bên Đông lẫn Tây. Nó không xuất hiện như một cấu trúc có thứ bậc của Hội Thánh nhưng trong một thế hệ có sự sống thánh thiện như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, Đấng đã dẫn dắt dân Người, để họ từ bỏ con người thế gian của mình, hầu thực hành sự hoàn thiện Kitô Giáo trong một con đường mới và mang tính triệt để. Điều này không bao hàm sự mâu thuẫn giữa nguyên tắc cấu tạo và sự thật về thứ bậc cũng như sự tồn tại cấu trúc trong thời đại. Trái lại, các giám mục như thánh Athanasiô đã khuyến khích và ủng hộ việc thực hành này. Sau này Hội Thánh luôn quan tâm và chú trọng đến đời sống đan tu.
Tuy nhiên, chúng ta có thể đặt vấn đề nếu đây là thực tế và nếu khuynh hướng tu trì này nhanh chóng phát triển, thì không thể thừa hưởng một thói lệ đan tu làm đánh mất đi một vài yếu tố nguyên thủy và đặc sủng của nó, khía cạnh mang tính sáng tạo và hỗn loạn. Các nhà thần học cho thấy rằng không nên có sự đối lập giữa khía cạnh trật tự và cấu trúc trong Hội Thánh và khía cạnh đặc sủng của nó, trong khi, giữa thế giới thực này lại luôn tồn tại một tình trạng căng thẳng giữa chúng. Đây không phải là điều đáng buồn. Đời sống được kéo dài bằng những áp lực mang tính sáng tạo.
Dòng chúng ta hiện giờ đáng kính nhờ có một lịch sử lâu dài, nhờ những cố gắng xây dựng và thực hành có tính quy mô lớn. Chúng ta đừng quên rằng tất cả sẽ là con số không, sẽ là một cái xác không hồn nếu chúng ta không nhờ Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy bằng hơi thở của Ngài. Chúng ta đừng quên yếu tố mạo hiểm và táo bạo trong cuộc phiêu lưu của các vị Linh Phụ tiên khởi của chúng ta, mở đường cho những ai đi vào sa mạc Chartreuse muốn bỏ lại sau lưng những gì xem ra bền vững trong thời gian, đời sống danh dự và chức vị để đi vào một sự chôn mình không ai biết đến, đi vào một tinh thần nghèo khó triệt để, không cần biết tất cả chúng sẽ chấm dứt ra sao.
Sự mạo hiểm và ẩn mình thiêng liêng cũng là thật đối với chúng ta, nhưng khía cạnh quý trọng và sự kiên định của luật Dòng quy hướng hoàn toàn vào sự dấu mình. Chúng ta đừng bao giờ quên tình trạng giới hạn của sa mạc, sự mất mát hoàn toàn mà đó là yêu sách của sa mạc, và một mình chúng ta kết hợp mật thiết với một mình Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có khả năng sống trong chiều kích sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Ơn gọi cá nhân chúng ta không thể bị giảm thiểu trước một thực tại xã hội có trước. Dù đôi khi có sự đan xen vào thực tại đó. Mỗi một người chúng ta cần lắng nghe Thánh Thần trong lòng mình và trung thành bước theo ân sủng của Người. Về phần Hội Thánh, mỗi một người chúng ta, có thể có một sức ép phát sinh – thế nhưng, đôi lúc sẽ là một sự bất hạnh – giữa ân sủng của chúng ta, đặc sủng của chúng ta, và việc lồng vào đó một truyền thống có trước của chúng ta. Chúng ta hãy tin cậy vào Thần Khí Chúa Kitô, Đấng hoạt động trong mọi hoàn cảnh. Sự thật chắc chắn sẽ được xác định trong sự giao thoa năng động giữa hình thức và tinh thần, giữa sự tiếp thu truyền thống trong quá khứ và sự thúc đẩy táo bạo hướng về tương lai. Nếu không có sức ép này thì hẳn không thể có đời sống.
GIAI ĐIỆU THIÊNG LIÊNG
Chúa Kitô là đường dẫn tới Chúa Cha. Chúng ta cần phải theo Người. Chúng ta muốn theo Người. Nhưng chúng ta giống như những người không biết âm nhạc để có thể nghe một bản nhạc giao hưởng cổ điển vĩ đại. Dầu sao chúng ta vẫn cảm thấy thích thú. Và dù cho tới bây giờ chúng ta không còn được nghe nữa nhưng các hợp âm ấy vẫn hòa âm trong chúng ta. Một khát vọng làm đẹp cứ quyện lấy chúng ta. Sẽ không có gì ngoài một sự tưởng tượng thoáng qua: chúng ta không biết sáng tác bởi lẽ quy luật âm nhạc vẫn còn là bí ẩn đối với chúng ta. Và dẫu cho chúng ta có học được những quy luật hòa âm, thì chúng ta vẫn sẽ khám phá ra mình không phải là những nhạc sĩ; bởi lẽ chúng ta thiếu đi tính nhạy cảm trước nét đẹp của âm thanh và sự cảm âm khả dĩ làm nên nhạc sĩ.
Vì vậy chúng ta được tham dự vào giai điệu vô biên là Đức Kitô. Người phán: “Hãy theo Ta”, “hãy yêu thương như Thầy đã yêu”. Chúng ta muốn có Chúa là tất cả. Chúng ta đã bỏ mọi sự (ít nhất là thiện chí). Nhưng chúng ta không phải là Chúa. Chúng ta không có khiếu trở thành “nhạc sĩ”. Chúng ta chỉ là những tội nhân khốn cùng, là những người yếu đuối nhất trong những người yếu đuối. Vả lại, những con người mạnh mẽ nhất cũng không thể đáp ứng được đòi hỏi: “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt5,48). Chúa mời gọi chúng ta thông dự vào thiên tính của Người (2Pr1,4), để được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Chí Thánh. Đó là một nỗi niềm trong bản thể con người. Chúng ta không bao giờ được phép kiêu ngạo, bất cứ loài thụ tạo nào, ngay cả các thiên thần là loài cao trọng nhất.
QUÀ TẶNG CỦA THÁNH THẦN
Nhưng đúng hơn vì Chúa biết rằng Ngài ban cho chúng ta phần thưởng đặc biệt của Thần Khí riêng của Ngài. Ngài ký thác công việc thánh hóa chúng ta cho Thánh Thần vì đó hoàn toàn là công việc của tình yêu. Ai có thể làm điều này tốt hơn Đấng phát sinh tình yêu bất diệt hằng kết hợp với Chúa Cha? Bởi đó, nhờ tác động của Thánh Thần, chúng ta được nên con Thiên Chúa, đồng thừa kế với Chúa Con, chúng ta đi vào cuộc trao đổi lớn về tri thức và tình yêu khả dĩ sinh động hóa những con người thuộc về Ba Ngôi Chí Thánh, là sự sống mật thiết với Thiên Chúa, là thực tại nền tảng của hữu thể. Để đạt đến mục tiêu này phải nhờ đến sự thánh hóa của ân sủng khả dĩ giúp chúng ta đạt tới một mức độ hữu thể thiêng liêng trong những chiều kích sâu xa của lòng chúng ta. Qua các nhân đức đối thần: tin, cậy, mến đã được thông ban cho chúng ta khi chịu phép rửa, chúng ta có khả năng thực sự để biết Thiên Chúa, nhận biết Thiên Chúa (dù là lờ mờ trong cuộc đời này), và để yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu mà Ngài đã yêu chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng hiểu rằng đây là một vấn nạn không thuộc về cái gì là thế phẩm hay giả tạo nhưng thuộc về tri thức và tình yêu thiêng liêng. Tri thức và tình yêu này là một và duy nhất. Cuối cùng Thiên Chúa, Đấng thấu suốt và yêu mến Ngài nơi chúng ta; có thể nói, Thiên Chúa sống sự sống của riêng Ngài trong chúng ta. Và dù sao chính chúng ta cũng đã cảm nếm sự sống này rồi. Đây là phần thưởng không thể tin được mà Thiên Chúa ban tặng chúng ta. Tuy nhiên, phần thưởng này được đón nhận trong nhân tính của chúng ta, nhân tính này đã bị giới hạn và bị tổn thương do tội lỗi (2Cr4,7). Chúng ta như những người con đưa đôi tay lên cao trong tác phẩm Tổng Luận của thánh Thomas Aquinô. Chúng ta chỉ biết đặt tên cho chữ viết hoặc đa phần là đọc từ ngữ. Nỗ lực của chúng ta để sống đời sống thiêng liêng chỉ được sáng tỏ nhờ ánh sáng lờ mờ của đức tin (quá lớn lao dù hãy còn ẩn tàng bởi tính siêu nhiên của nó) và nhờ lý trí bất toàn. Và hơn nữa vì bản tính bị thương tổn của chúng ta vẫn còn, nó làm mù tâm trí chúng ta và đẩy chúng ta vào hàng ngàn cạm bẫy giữa ý chí và hành động chúng ta. Cuối cùng, chỉ một mình Thiên Chúa mới cao cả như Ngài hằng có. Chỉ có Thánh Thần mới có khả năng chữa lành chúng ta và làm cho chúng ta sống sung mãn trong ân sủng mà chúng ta đã nhận được. Điều này không chỉ có ở trên thiên đàng mà còn có ở đây và ngay bây giờ. Chúng ta là con cái Thiên Chúa. Chúng ta muốn và chúng ta phải sống như con cái Thiên Chúa. Phải chăng đời sống hoàn thiện của chúng ta là một sự triển nở trường kỳ trong đời sống thiêng liêng? Một cuộc sáng tạo mới nhưng nó sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự cộng tác của chúng ta?
Vậy, đây sẽ là một vỡ kịch. Một mặt tự do giới hạn của chúng ta, tinh thần hỗn loạn của chúng ta sẽ bị làm cho điếc bởi sự ồn ào của giác quan và của thế gian. Mặt khác, đời sống phi thường mà chúng ta đang có nơi mình, là sự sống thiêng liêng, sự sống đời đời được Thánh Thần sinh động hóa, Thánh Thần không phải là cái gì đó thuộc về chúng ta một cách tiêu cực. Ngài là tình yêu, là sự sống, là ánh sáng, bởi vì Ngài là Thiên Chúa. Nơi chúng ta, Ngài chính là nguồn mạch của tình yêu và ánh sáng. Ngài không chỉ ban cho chúng ta để chúng ta thông dự vào bản tính thiêng liêng trong nhận thức phong phú của bản thể phi thường nhưng Ngài còn hoạt động thường xuyên trong chúng ta bằng cách thúc đẩy ý chí và khai sáng trí khôn, giúp chúng ta sống theo con người thật của mình. “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm8,14).
PHỤC TÙNG THẦN KHÍ
Đây là câu trả lời: hãy để Thần Khí dẫn dắt chúng ta (Gl5,16), hãy để cho Thần Khí biến đổi chúng ta nên giống hình ảnh Chúa Kitô (2Cr3,18), hãy sống theo Thần Khí một cách tự nguyện (Gl5,25). Chúng ta có thể làm cản trở hoạt động của Thần Khí, làm phiền lòng Thánh Thần (Ep4,30). Thần Khí không hành động như một bạo chúa. Ngài cũng không xử sự như một cái máy. Hoạt động của Người sâu thẳm mà kín đáo. Người mời gọi chứ không áp đặt. Người không lấy đi tự do của chúng ta, nhưng Người làm cho chúng ta được tự do.
Ở đây chúng ta thấy việc tuân phục Thánh Thần là hết sức quan trọng nhưng cũng là điều khó. Sự tuân phục có khả năng làm cho chúng ta đi vào một cấp độ mới của thực tại. Ngài không ép buộc. Việc học hỏi sẽ tiệm tiến ở một mức độ sâu xa liên lỉ trong sự lắng nghe, đón nhận và đáp trả của chúng ta. Với phần thưởng của ân sủng thánh hóa để giúp chúng ta, chúng ta đã nhận được một nhận thức mới như phần thiết yếu của hành trang giúp chúng ta sống đời sống con cái Thiên Chúa: một cảm nghiệm trước hoạt động của Thánh Thần. Miễn là một họa sĩ, người có một cảm nhận đặc biệt đối với vẻ đẹp của con mắt dễ tiếp thu hình thức đẹp này một cách đặc biệt, cũng như con cái Thiên Chúa có một nhận thức, một sự tiếp thu đặc biệt đối với những tác động và ánh sáng của Thánh Thần.
Có tất cả các loại sóng điện từ chuyển động trong môi trường xung quang chúng ta. Chúng ta không thấy được bởi vì chúng ta không có một cơ sở nào để phát hiện ra chúng. Chúng ta cần một chiếc máy nghe hay một chiếc máy vô tuyến truyền hình để xem các bước sóng này và để đón nhận những thông điệp mà chúng gửi tới. Cũng vậy, chúng ta cần hành trang đặc biệt để nhận ra tác động của Thần Khí, một đôi tai có khả năng nghe được bản nhạc đặc biệt. Các Linh Phụ nói về những cánh buồm của con thuyền nhỏ là linh hồn, khả dĩ làm cho nó bắt gặp được làn gió thổi lướt nhẹ của Thần Khí. Mọi hình ảnh ví von đều không thể diễn tả hết được. Không nên quá cụ thể hóa các thực tại này bởi chúng quá tinh tế và huyền nhiệm.
Các nhân đức con người là những khuynh hướng do tập thành hầu làm cho con người tuân phục đối với tiếng nói của lý trí. Có nhiều khuynh hướng tập thành làm cho chúng ta tuân phục Thánh Thần. Chúng có đó trong linh hồn chúng ta bởi lẽ chúng không do nỗ lực. Chúng được ban tặng cho chúng ta qua Thần Khí, nhờ Thần Khí, chỉ khi nào Thần Khí được ban tặng cho chúng ta. Và do đó, chúng được gọi là phần thưởng của Thần Khí.
Chúng quy về nhiều hoạt động đặc trưng nhất của Thần Khí: khôn ngoan, minh mẫn, khéo liệu, dũng mãnh, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Đức Chúa (Is11,2-3). Nhờ hoạt động của Người mà Thánh Thần sinh ra trong chúng ta những thuộc tính giống như Chúa Giêsu đã phác thảo một hình mẫu mang tính vĩ mô trong Tám Mối Phúc: tinh thần nghèo khó, đói khát sự công chính, hiền lành, thương xót, khóc lóc, tấm lòng trong sạch, bình an – đây là khuôn mặt của Chúa Kitô, của Tình Yêu một cách cụ thể.
Những gì liệt kê trên không phải là một tổng thể. Chúng chỉ nhắm đến những đặc tính quen thuộc chắc chắn của một yếu tố cần thiết có thể bày tỏ mình một cách khác biệt mà bền vững (hay ít là một cách chi tiết). Cũng với những nét đặc trưng chắc chắn ấy, một phần thưởng sẽ được trao ban có thể lúc này hay bất kỳ lúc nào. Thần Khí tác động trong một người sống đời hoạt động cũng một cách thức như tác động trong một người sống đời chiêm niệm và ngược lại một người sống đời hoạt động không được ơn Thần Khí thì cũng như một người sống đời chiêm niệm không được ơn Thần Khí vậy.
Điều gì là thiết yếu để mỗi người nghe theo tác động riêng mà Thần Khí đang hoạt động trong họ. Các hợp âm đang hòa âm trong họ nhờ sự tiếp xúc với Thần Khí khả dĩ nghe được một nội dung mà nội dung ấy sẽ thành yếu tố quan trọng trong sự hòa âm của giai điệu Thân Mình Chúa Kitô toàn thể. Nhưng chỉ có Thần Khí mới biết bản nhạc đó là gì, bởi chính Ngài là tác giả. Chắc chắn nếu chúng ta lắng nghe thì chúng ta có thể nhận thức được vẻ đẹp của nó trong một mức độ chính xác và chúng ta sẽ vui mừng trong sự hòa âm tuyệt đối của nó. Nhưng điều cần thiết đối với chúng ta là hãy làm tất cả những gì chúng ta có thể để tập trung tốt vào giai điệu nhờ đó chúng ta có thể hát được nội dung của riêng chúng ta chứ không phải của người khác.
CHƯƠNG 10 VỊ THẦY THIÊNG LIÊNG
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
Đời sống thiêng liêng là gì? Đời sống thiêng liêng không nguyên chỉ thuộc phạm trù tinh thần. Đó là đời sống của Chúa Thánh Thần được cụ thể hoá trong đời sống của một người, với tất cả tư cách con người của anh hay chị {vì “thân xác bởi Thiên Chúa” (1Cr 6,13)}. Chúng ta là những con người thần thiêng với việc Kitô hóa nhờ lời nói của đức khôn ngoan, cùng với mức độ chúng ta sống theo Thần Khí và để Ngài sống trong ta. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8,9). Tôi xin nhắc lại rằng chúng ta sẽ như thế nào còn tuỳ theo mức độ chúng ta sống trong Chúa Thánh Thần. Thánh Thần có khả năng làm cho chúng ta sống sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa là thực tại: thực tại duy nhất chân thật và trọn vẹn. Làm sao có được một đời sống thiêng liêng không bị giới hạn bởi cái nhìn của ta về một phần của thực tại. Cần mở rộng tầm nhìn để nắm bắt toàn bộ thực tại ở mọi khía cạnh của nó.
Thường thì chúng ta hay có cái nhìn thiển cận. Chúng ta vẫn còn sống ở vị trí nông cạn nhất trong con người ta. Chúng ta hành động như thể chỉ duy cuộc đời ta mới ở trong tình trạng thức tỉnh. Bằng chứng là chúng ta làm cho đời sống mình ngày một phong phú hơn qua việc tạo nên một khái niệm với những thói quen cố hữu, chúng ta loại bỏ những gì không xác định được cả số lượng lẫn nội dung bằng việc duy lý hoá. Trong thực tế của nhân loại thuộc nhiều nền văn minh khác nhau cho ta thấy vô số lịch sử, hành động, hàng ngàn sự khôn ngoan. Để lấy một ví du[1], không phải là quan trọng nhất nhưng là một ví dụ mà ngày hôm nay đang thịnh hành. Chiều sâu tâm lý cho chúng ta biết, chúng ta cũng có trong bản thân mình một đời sống ý thức và vô thức, phổ quát hơn và mạnh mẽ hơn như đời sống ý thức vậy. Cấu trúc luật lệ và sự lôgíc của nó hoàn toàn khác với những điều liên quan đến đời sống ý thức. Tương tự cũng có một đời sống thiêng liêng trong ta. Một tư tưởng[1], không tạo ra mức độ khác bên trong đời sống vô thức nhưng phải bao gồm toàn bộ hữu thể con người, ý thức cũng như vô thức. Nó phổ quát hơn mỗi ngày trong đời sống nhân loại và nó mở ra khung trời mênh mông của đời sống thiêng liêng. Có quá nhiều cấu trúc và luật lệ, rất huyền bí đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm của những người có đời sống thiêng liêng trải qua nhiều thế kỷ đã để lại một nhận thức sâu xa về những mối dây ràng buộc của đời sống này. Và trên hết, thần khí Chúa Kitô là đường đi của chúng ta và nó hé mở cho ta một vài tia sáng.
Đời sống thiêng liêng phải là môi trường bẩm sinh của đời đan sĩ – của mọi người, về vấn đề đó, vì nó không gì khác chính là môi trường đức tin. Đời sống này phải đưa chúng ta tới một nơi thật xa, nơi mà chúng ta đặt lên hàng đầu theo quy luật vĩnh cửu: những phán đoán này phải được thực hiện trong ánh sáng của Thánh Thần. Có thể nói, đây là sự hợp lý của Thánh Thần, sự hợp lý của tình yêu đã hướng dẫn các thánh và đôi khi làm cho họ phải bận tâm về chúng ta, bởi chúng ta quá hay xét đoán theo tiêu chuẩn của cái nhìn thiển cận và độc đoán.
SỰ ĐIÊN RỒ CỦA ĐỨC TIN
Đôi mắt chúng ta nhận được hình ảnh của sự vật bị đảo lộn: ví như trần nhà ở dưới còn sàn nhà ở trên. Nhờ một phép tính xa hơn mà hình ảnh được đặt đúng và vì đó mà chúng ta nhìn thấy trần nhà ở trên, sàn nhà ở dưới. Cũng vậy, đức tin đảo ngược hình ảnh thực tại xảy ra trước mắt chúng ta. “Vì nghèo thì có phúc. Cái chết là cửa ngỏ đi vào sự sống. Liều mất mạng sống mình vì người yêu thì sẽ tìm lại được”. Chúng ta cần tỉnh thức phân định liên lỉ, nếu không chúng ta vẫn nhìn thấy sàn nhà ở trên và trần nhà lại ở dưới. Chúng ta bị đánh lừa bởi cả một thế giới vô tín ngưỡng và duy vật hay chỉ biết quy ngã. “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr1,25). Thánh Phaolô quả quyết: “Chúng tôi điên dại vì Đức Kitô” (1Cr4,10). Chúng ta hãy trở nên điên với người điên (1Cr3,18). Tất cả sự khôn ngoan của chúng ta được đặt nền tảng trên sự điên dại của thập giá, nó lật đổ sự khôn ngoan của người phàm (1Cr1 và 2). Có lẽ chúng ta quá đề cao sự khôn ngoan tự nhiên trong đời sống chúng ta. Chúng ta quên rằng cần phải trở thành người điên thì mới có thể ôm ấp sự khôn ngoan! “Thầy đến ném lửa vào mặt đất” (Lc12,49).
THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN
Hãy nhớ rằng Thánh Thần đã “thúc đẩy” Chúa Kitô vào hoang địa (Mc 1,12) “và Thánh Thần dẫn Người đi vào hoang địa 40 ngày, chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2). Các khoản Tu Luật cho chúng ta hay rằng, nhờ khí cụ thiêng liêng mà Ngài đã chiến thắng ma quỷ và chước cám dỗ của nó (Tu Luật 0,2,10). Không thể có con đường khác cho chúng ta, những người theo Chúa. Cách sử dụng thử thách trong nơi cô tịch là công việc của Chúa Thánh Thần, thế nên chỉ nhờ khí giới của Thánh Thần chúng ta mới thắng được các chước cám dỗ nơi sa mạc (x.Ep 6,10-17).
Chắc chắn khôn ngoan tự nhiên thì không đủ để sống ơn gọi đan tu từ đầu đến cuối. Chỉ có ánh sáng Chúa Thánh Thần mới có thể làm cho đức tin sắc bén đủ. Chỉ có Thánh Thần tình yêu mới có thể làm cho chúng ta nhạy cảm trước sự cuốn hút của Thiên Chúa và ban sức mạnh cần thiết cho tình yêu của chúng ta đồng thời làm tăng cường một cách hiệu quả việc dâng hiến mọi sự cho Chúa Kitô để rồi theo Người đi vào sa mạc.
VỊ THẦY THIÊNG LIÊNG
“Sống trong trường học của Chúa Thánh Thần” là nền tảng nhờ đó các đấng tổ phụ dần dần đã khám phá ra hình thức của đời sống chúng ta. Vì “trường học” thì ghi dấu ấn của “thầy dạy”. Chúng ta nhắc nhớ về sự cần thiết của việc được Thánh Thần hướng dẫn – một mình Thiên Chúa biết nơi Ngài sẽ dẫn chúng ta tới để sống và cảm nếm những gì thuộc về Thánh Thần (Tu Luật 4,33,2). Trong bản văn của thánh Phaolô gửi tín hữu Roma 8,5, ngài trình bày: “Những ai sống theo Thần Khí thì hướng về những gì thuộc Thần Khí”. Nhưng đó là bản văn có lẽ gây cảm hứng cho các tác giả bộ luật thánh: sự sống thiêng liêng. Họ nếm được những gì là thiêng liêng. Nó diễn tả một sự liên kết chặt chẽ, một khả năng bẩm sinh của sự thống nhất hoàn toàn trong bản chất người, một con người thật sự trong nội tại với những gì thuộc về Thánh Thần, mô tả con người thiêng liêng, được hướng dẫn, được dạy dỗ bởi Chúa Thánh Thần.
Một hoa trái chắc chắn thuộc về đời sống thiêng liêng, thuộc về những gì xuất phát từ Thiên Chúa qua Chúa Thánh Thần ấy là kinh nghiệm trực tiếp được cảm nếm. Vị thầy này không dùng lời nói bên ngoài để dạy dỗ. Người nghĩ trong chúng ta (2Tm 1,14); trong đền thờ của thân xác chúng ta (1Cr 6,19), trong lòng chúng ta (Gl 4,6).
Từ đó Người dẫn chúng ta tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13), Người dẫn lối đưa đường, điều khiển, soi sáng và làm cho chúng ta cháy lửa yêu mến Người (Rm 5,5). “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do từ Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1Ga 2,20).
Chúng ta vào Dòng Chartreuse là để tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng chỉ có Thánh Thần mới có thể mặc khải cho chúng ta “những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa” (1Cr 2,10). Vì Thánh Thần đã mặc khải sự khôn ngoan nhiệm mầu và ẩn kín nơi Thiên Chúa mà thánh Phaolô hứa hẹn cho những tín hữu trưởng thành, sự khôn ngoan hoàn toàn khác với sự khôn ngoan của thế gian.
Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là thần khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ đã học được nơi thần khí; chúng tôi dùng những lời lẽ thần khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về thần khí. Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của thần khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ thần khí mới có thể xét đoán. Nhưng con người sống theo thần khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó. Thật vậy, “ai đã biết tư tưởng của Chúa, để chỉ vẽ cho Người? Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Kitô” (1Cr 2,12-16).
Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, tư tưởng của Đức Kitô – chính là Thánh Thần, Đấng là nguồn của các điều ấy. Chúng ta hãy nhìn lại mình một cách thành thật xem: Thần khí nào đang thúc đẩy chúng ta trong các hành động, chọn lựa, phán đoán và ước muốn? Thần khí của Chúa Kitô? Hay của những gì hư ảo, tính tự cao tự đại, tự ái, giận dữ, ấu trĩ; theo kiểu nói của thánh Phaolô là bởi xác thịt?
THINH LẶNG
Chúng ta tìm thấy trong các đoạn luật lời giáo huấn khôn ngoan và thực tế giúp chúng ta hướng về một đời sống được dẫn dắt bởi Chúa Thánh Thần. Chúng làm nổi bật tầm quan trọng của thinh lặng.
Trước hết, là sự thinh lặng ngoại tại. Chúng ta phải giữ gìn nó với mục đích dâng hiến cho Chúa Thánh Thần, Đấng hằng cư ngụ trong chúng ta - trong chính chúng ta và trong tha nhân. “Trò chuyện kéo dài vô ích thì hay làm phiền lòng Thánh Thần” (Tu Luật 2,14,4).
Nhưng quan trọng hơn vẫn là thinh lặng nội tại. Chuẩn mực cho phán đoán chính là lắng nghe Thần Khí chứ không phải kiến thức thế tục. “Do đó, mỗi người hãy lắng nghe Thần Khí và xác tín hơn về điều mình nhận lãnh vào lòng, đồng thời không ước muốn gì hơn là được đàm đạo với Thiên Chúa trong đời sống nội tâm” (Tu Luật 1,6,6). Đây là một ví dụ về thái độ chăm chú lắng nghe, một thái độ của tinh thần dễ cảm thụ, mềm dẻo và linh động nội tâm dưới tác động của Vị Thầy thiêng liêng; Đấng đã đặt mọi sự qua một bên để có thể ẩn dấu tiếng nói của mình.
“Một người sống lâu trong lều, người ấy sẽ vui lòng sống như thế hơn nếu người ấy cầm giữ được mình một cách ích lợi trong sự tuân phục, đọc sách, viết lách, hát thánh vịnh, cầu nguyện, suy gẫm, chiêm ngưỡng và làm việc. Hãy để người ấy thực hành phương thế đó mọi lúc tới khi nào con tim có thể nghe được tiếng thinh lặng, hầu Thiên Chúa có thể ngự vào lòng họ qua nhiều hướng” (Tu Luật 1,4,2).
Tất cả đạo lý của việc giữ lòng mình bao gồm ở đó. Điều này hết sức quan trọng để có thể tiến bước trên hành trình dài. Sự thinh lặng của chúng ta không phải là cái gì tiêu cực nhưng là một hình thức chăm chú, một sự dễ cảm thụ trong tinh thần lạc quan. Điều này có thể so sánh một cách đúng đắn với nhân vật Maria ở Bêtania ngồi dưới chân Chúa Giêsu, dành tất cả sự chăm chú đối với lời Ngài. Trong thinh lặng, đan sĩ mở lòng mình ra cho Lời Chúa qua việc đọc sách thiêng liêng (lectio divina), cầu nguyện, cái nhìn đơn sơ của đức tin tiếp nhận Chúa trong tất cả thụ tạo của Người.
Sẽ là bất thành[1] nếu một đời sống cầu nguyện mà không có sự thinh lặng nội tâm. Sự thinh lặng này làm cho chúng ta có khả năng hoàn toàn quên đi cuộc đàm đạo bên trong chúng ta, quên đi những mẫu mực lý tưởng và cả chính mình nữa, để có thể đi vào trong sự thinh lặng của Thiên Chúa, Đấng là sự sống, ánh sáng và tình yêu hoàn hảo, nơi đó một lời độc nhất được thốt ra trong tình yêu, lời dẫn chúng ta tới ánh sáng bất khả tiếp cận của Chúa cha.
THÁNH THẦN
ĐƯA CHÚNG TA VỀ ĐÂU?
“Người nào tiếp tục kiên định trong lều của mình và đặt bản thân trong khuôn khổ ấy thì dần dần sẽ tìm thấy được đời sống hoàn hảo của mình theo hướng trở thành con người cầu nguyện liên lỉ…được thanh luyện trong đêm tối kiên nhẫn, được an ủi và nâng đỡ nhờ sự chuyên chăm suy niệm Thánh Kinh, được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần trong sâu thẳm linh hồn mình, bấy giờ người ấy sẵn sàng, không chỉ để phục vụ Thiên Chúa, mà còn kết hợp với Người trong tình yêu” (1,3,2).
Lều huấn luyện chúng ta không phải là lều vật chất nhưng đúng hơn nó tạo nên một không gian cô tịch và thinh lặng cho phép ta lắng nghe Thánh Thần và để cho Ngài dạy dỗ. Hệ luận của việc dạy dỗ này quan trọng bậc nhất trong việc cầu nguyện liên lỉ đến nỗi các vị tổ phụ sa mạc đã phân ra như sau: một sự chăm chú triền miên vào Thiên Chúa và một sự biến đổi không ngừng của con tim hướng về Ngài.
Chúng ta biết rằng việc cầu nguyện vượt ra ngoài khả năng chúng ta. Trong thực tại sâu thẳm nhất vì nó là một tiếng rên xiết khôn tả của Thánh Thần ngay trong chúng ta mà chỉ một mình Thiên Chúa chân thật mới hiểu được (Rm 8, 26). Chúng ta chắc chắn rằng cầu nguyện là quà tặng của Thánh Thần. Không ai có thể nói Giêsu là Chúa ngoài Thánh Thần. Đây thật sự là mức độ cao nhất của lời cầu nguyện thanh khiết mà Tu Luật nói tới. Sự cầu nguyện này là hoa trái hoàn hảo nhất của đức tin và đức ái, đồng thời nó dẫn chúng ta tới sự kết hợp mật thiết nhất với Thiên Chúa ngay ở đời này.
Cụm từ cuối cùng trong đoạn trích nói lên thực tại huyền bí này khi nó quảng diễn hoa trái của tác động Thần Khí như là khả năng “không chỉ để phục vụ Thiên Chúa mà còn kết hợp với Người”. Trong tư tưởng của William Thierry[1], chúng ta tìm thấy lời ca ngợi tán dương này, đó là một vấn đề chiêm ngưỡng hòa điệu giống như sự vươn lên của một người hệ tại ở chỗ được nên một tinh thần với Chúa (1Cr6, 17). Nó nói cho chúng ta biết một cái gì đó về hành trình thiêng liêng: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, đan sĩ được đưa vào sâu trong lòng mình, nơi ấy họ ở lại một mình với Thiên Chúa để gặp gỡ Ngài. Con đường dẫn tới Thiên Chúa thông qua một kinh nghiệm thâm thúy và một sự biến đổi cá nhân. Chúng ta biết rằng lòng ở đây có nghĩa là trung tâm của sự hợp nhất mọi năng lực riêng của con người.
Nguồn của tất cả sức sống con người cũng như thần thiêng. Là nơi diễn ra một cuộc chiến thiêng liêng. Để đi vào chiều sâu cõi lòng, nghĩa là con đường xuyên qua ý thức được giải thoát khỏi các ngẫu tượng của nó, lột bỏ các lớp vỏ tê liệt của sự vị kỷ, tính kiêu căng và hư ảo, để rồi hạ mình xuống tới chỗ cốt lõi của bản thể nó trong sự khiêm hạ, sự thật và sau cùng là tình yêu, để có thể tìm thấy nơi ở của Thiên Chúa; nơi phát sinh mạch nước thuần khiết của tình yêu sáng tạo Thiên Chúa.
“Ở đây, trong cô tịch và thinh lặng, đã thành thói quen nhờ con mắt đó, bởi cái nhìn trong sáng mà vợ chồng bắt gặp được tình yêu; con mắt đó nhìn Thiên Chúa cách thanh khiết và trong sạch…Ở đây Thiên Chúa thưởng công cho những vận động viên hằng khao khát mong đợi phần thưởng: Bình an mà thế gian không hề nhận biết, cùng với niềm vui trong Chúa Thánh Thần” (Tu Luật 1,6,16). Niềm vui của tình yêu này “được đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Như thế, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta có thể đạt tới tình yêu tuyệt đối - đó là mục đích trong lời khấn của chúng ta và toàn bộ đời sống đan tu – và nhờ đó chúng ta đạt được hạnh phúc vĩnh cửu (Tu Luật 0,1,4).
PHỤ LỤC:
LỜI VÀNG
CỦA WILLIAM THIERRY[1]
Về phần khao khát nền tảng, trước tiên là đối tượng khao khát được quan tâm, kế đến là phạm vi của lòng khao khát và cách thức khao khát. Nếu khao khát chính yếu của một người là Chúa thì người ấy nên xét xem mức độ mình khao khát Chúa như thế nào và bằng cách nào, cả hai việc từ bỏ mình và từ bỏ mọi sự, chúng tồn tại hoặc có thể tồn tại và điều này không chỉ phù hợp với phán đoán của lý trí mà còn là một khát vọng yêu của linh hồn, để bây giờ có một cái gì đó còn hơn cả ý chí: tình yêu, dilection, lòng nhân từ và sự hợp nhất thiêng liêng.
Vì các điều này là cấp độ của tình yêu Thiên Chúa. “Yêu” là một khuynh hướng mạnh của ý chí hướng về Thiên Chúa. “Dilection” là một sự bám rễ sâu vào Ngài hoặc một sự kết hợp với Ngài; “lòng nhân từ” là niềm vui của Ngài. Còn “sự kết hợp thiêng liêng” với Thiên Chúa, đối với người nào biết nâng lòng mình lên thì sự hoàn hảo của ý chí hệ tại ở việc hướng lòng lên Thiên Chúa: Không chỉ làm cho linh hồn muốn điều Chúa muốn mà còn khao khát yêu, ta có thể nói, sự hoàn hảo của lòng khao khát đối với linh hồn đó là không thể muốn bất cứ sự gì ngoài điều Thiên Chúa muốn.
Nên giống Thiên Chúa là tất cả sự hoàn thiện của các thánh. Khước từ nên hoàn thiện cũng là tội. Do đó, ý chí nên hoàn thiện phải luôn được nuôi dưỡng từ việc phát triển những dự phóng và tình thương. Ý chí không bị tiêu hao đây đó trên những vật thể ngoại tại, bởi tình yêu thắng vượt sự chết. Chỉ vì mục đích này mà chúng ta được dựng nên, chúng ta hãy sống và nên giống Thiên Chúa; vì chúng ta là hình ảnh của Ngài.
Tuy nhiên, có một hình thức giống Thiên Chúa mà con người đánh mất. Nó giống đến mức như một hữu thể sống động…nhưng có một hình thức giống khác đó là con người tiến lại gần Thiên Chúa hơn, đến mức nó được tự do khao khát và hệ tại ở nhân đức. Nó diễn ra khi thần trí rực cháy lên theo gương Đấng tối cao nhờ nhân đức đại đồng của nó và kiên định trong sự sống thiêng liêng vĩnh cửu nhờ luôn luôn bền lòng trong điều thiện hảo.
Ngoài ra, vẫn còn có một hình thức khác nữa, bao trùm hình ảnh giống đến nỗi nó không chỉ được gọi là một hình thức giống nữa mà còn nên một tinh thần. Nó làm cho con người nên một với Thiên Chúa, nên một thần trí, không chỉ nên một trong sự kết hợp đến từ ý muốn giống cái gì đó, vì tôi không biết quảng diễn chính xác hơn về một nhân đức không thể thực hành được như đã nói trên, mà còn ước muốn điều gì đó hơn nữa.
Được gọi là sự hợp nhất thiêng liêng không chỉ vì Thánh Thần ban cho hoặc khuynh hướng thiêng liêng của họ về sự hiệp nhất ấy mà còn vì chính hiệu năng của Thánh Thần, Đấng là tình yêu.
Sự hiệp nhất thiêng liêng xảy ra khi người ấy là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, là sự kết hiệp, sự ngọt ngào, sự thiện hảo, nụ hôn, sự ôm ấp và còn hơn nữa mà họ có để góp chung trong sự thật duy nhất và duy nhất trong sự thật toàn vẹn, người ấy trở thành con người hướng về Thiên Chúa một cách xứng hợp, người ấy trở thành mục tiêu cho sự hướng về Chúa cha của Chúa con và sự hướng về Chúa con của Chúa Cha xuyên qua bản thể duy nhất. Linh hồn ngụp lặn trong hạnh phúc khi nó tìm thấy chỗ đứng của mình trong vòng tay và nụ hôn của Chúa Cha và Chúa Con. Trong một cách thức vượt ra ngoài sự diễn tả và suy thấu, người của Thiên Chúa tìm được xác tín của mình rằng họ không phải là Thiên Chúa nhưng ở trong Thiên Chúa, có thể nói người ấy ở trong ân sủng nhờ bản chất hằng hữu của Ngài.
|
|