(tiếp...)

CHƯƠNG 11 PHÂN ĐỊNH CÁC THẦN KHÍ


Nghệ thuật thiêng liêng bao gồm toàn bộ việc để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn bản thân chúng ta. Điều này đúng, vì nhờ đó chúng ta có khả năng nhận ra những hoạt động của Chúa Thánh Thần. Bởi lẽ không phải mọi thần khí đều xuất phát từ Thiên Chúa. Cho nên đòi hỏi cấp bách cần có sự phân định (1Ga4,1). Đời sống của một đan sĩ độc thân đòi hỏi một sự khởi đầu liên lỉ trong sự phân định. Điều này được hoàn thành trước hết nhờ sự trợ giúp của các linh phụ, đan sĩ trẻ có thể phân định các thần khí riêng một cách quân bình. Nhưng suy cho cùng thì vẫn phải nhờ tới sự suy xét của chính chúng ta.

PHÂN ĐỊNH CÁC THẦN KHÍ
TRONG KINH THÁNH

Trên thực tế, con người là những chủ thể thụ động. Ở đây một phần của bản chất chúng ta được phơi bày: sinh lý, thể lý, tâm lý, tinh thần. Môi trường xã hội và gia đình là nơi chúng ta được dìm vào – có một tầm ảnh hưởng sâu rộng trên chúng ta và mặc dù không đồng tình nhưng chúng ta vẫn phải giữ lại những giá trị lớn để chính “một vài yếu tố đó” làm nên những nét gia đình và những đặc điểm mang tính họ hàng. Mỗi phút giây sống, chúng ta đều bị thu hút, kìm hãm và bị thúc ép bởi nhiều hình ảnh từ bên trong lẫn bên ngoài, tựa như sóng biển vỗ dồn vào chiếc thuyền. Chúng ta có tự do để trả lời nhưng quyết định của chúng ta luôn mang dấu ấn từ những ảnh hưởng này.

NGANG QUA CỰU ƯỚC

Những ảnh hưởng này không hoàn toàn rõ rệt. Những trang đầu của sách Sáng Thế đã cho thấy sự hiện hữu của quyền lực sự dữ, Satan, đã cám dỗ loài người chống lại lệnh truyền của Thiên Chúa (St3). Adam đã sa ngã. Tương quan giữa con người đổ vỡ. Mở ngỏ cho sự thèm muốn, buông thả, xác thịt chống Thần Khí. Đời sống xã hội và chính trị, những cuộc đối đầu giữa ánh sáng và bóng tối bùng lên, trái tim con người tan nát.
Tuy nhiên Thiên Chúa cũng không để cho kẻ thù được toại nguyện. Thần Khí Thiên Chúa hằng tác động trên con người cách gián tiếp hoặc trực tiếp.
Xuyên qua Cựu Ước, tác động này thay đổi từ một ảnh hưởng ít nhiều mang tính ngoại tại (Vd: những quan án, những thủ lãnh...) cho đến một tác động mang tính nội tâm dần dần. Niềm hy vọng căn bản nhất là Thần Khí sẽ viết lề luật của Thiên Chúa trong sâu thẳm lòng con người để hoàn tất trong tự do và viên mãn (Ga31,33).

TIN MỪNG NHẤT LÃM

Chúa Kitô sinh bởi Đức Trinh nữ Maria nhờ Bóng Thánh Thần, là một dấu chỉ của sự nghịch lý làm sáng tỏ bí ẩn của nhiều tâm hồn. Sự hiện diện thuần khiết của Người gợi lên một sự phân định, đòi hỏi một chọn lựa.
Tác động đầu tiên của Chúa Thánh Thần đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa theo trình thuật của thánh Luca, hoặc “dẫn” Người vào sa mạc chịu ma quỷ cám dỗ trong trình thuật của Marcô.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu phải đương đầu với kẻ thù dưới hình thức: tham ăn, danh vọng, quyền lực hầu cám dỗ Thiên Chúa. Cũng vậy, đường hướng của Thần Khí đương nhiên kết nối sự sống trong Con Thiên Chúa, phụ thuộc vào sự sáng tạo của Thiên Chúa, sự sống ấy được nuôi dưỡng nhờ sự lệ thuộc tuyệt đối này, hoàn toàn mời gọi sống nghèo khó, ẩn mình của Người, nhưng cũng phát sinh ơn cứu độ cho tất cả, đó là vai trò của Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Tất cả công việc của Người sẽ là dẫn dắt dân Người đi tới sự nhận biết đường hướng của Thần Khí (x. Bài giảng trên núi, Mt 5) và để thực hành chọn lựa này.
Phần lớn “người Do Thái” đều không biết phân định tác động của Thần Khí ngay trong lời nói và phép lạ của Chúa Giêsu. Họ nhìn thấy tác động của Satan (Mt12,24). Đó là tội chống lại Thánh Thần, chống lại chính ánh sáng (Mt12,31-3).
Xét về hiệu năng thì những dấu chỉ Chúa Giêsu làm đều mang tính huyền nhiệm và ẩn kín. Họ không được nhìn thấy tỏ tường trừ người nghèo và người có lòng đơn sơ. Họ phạm tội kiêu ngạo và khước từ. Những dấu chỉ này không thay đổi được thế gian và họ không được vào thiên đàng ở đây và bây giờ.
Trong lời tuyên xưng của Phêrô ở Cézaré thì Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và thế lực chống đối hiện nhiên là rất nhiều. Chính Chúa Cha cũng mặc khải cho Phêrô biết Ngài đồng bản tính với Chúa Con. Nhưng khi Chúa Giêsu nói về cuộc khổ nạn và cái chết đang đợi Người ở Giêrusalem thì Phêrô không thể chấp nhận ý tưởng này và bắt đầu quở trách Người. Lúc này Chúa Kitô vạch mặt sự hiện diện của kẻ thù nấp đằng sau lời nói của Phêrô. “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,21-23). Ánh sáng Thiên Chúa và tư tưởng Satan theo sát nhau và gây chiến trong tâm tưởng Phêrô, thập giá Chúa Kitô hoàn toàn đúng đắn, nhưng đối với con người lại là điều ghê tởm và nghịch lý. Đây là tiêu chuẩn vô giá để phân biệt người môn đệ Chúa (Mt16,24).
Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta (Is 55,8-9). Cám dỗ của người môn đệ là muốn được thành công ở mức độ con người hoàn hảo, biết trước sự kiện xảy ra và dấu chỉ thời đại (Mc 13,4). Nhưng Nước Thiên Chúa thuộc về hoa trái của sự hy sinh. Mắt thịt không thể nhìn thấy rõ được (Lc17,20). Ở giữa chúng ta (17,21) và phát triển cách tiệm tiến đồng thời bí mật như một hạt giống gieo vào lòng đất (Mc 4,26-29).
Chúa Giêsu đưa ra một quy tắc đơn giản để phân biệt giữa các ngôn sứ giả và những người được Thiên Chúa sai đến: “cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai…Nên hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 17,16-17).
Dụ ngôn người đi gieo giống (Mt 13,3-23) cho chúng ta thấy đặc tính của người nhận Lời Chúa và sinh hoa kết quả: kết quả là không hiểu hoặc kiên trì chịu thử thách, hoặc Lời Thiên Chúa bị bóp nghẹt bởi trăm ngàn nỗi lo trần thế của bã vinh hoa.
Đôi lúc để phân định quả là rất khó; tốt xấu lẫn lộn khó mà gỡ ra. Chúng ta buộc phải để cỏ lùm giữa lúa mì cho tới mùa gặt (Mt 13,24-30).
Chúa Kitô bảo chúng ta hãy đề phòng các thần khí, bởi khi chúng trở lại ngôi nhà, chúng “thấy nhà để trống, lại được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi…Rốt cuộc, tình trạng của người ấy còn tệ hơn trước” (Mt 1,43-45).
Đây là một thực tại đời sống thiêng liêng, trên cả cô tịch. Trong khiếm khuyết của những dịp tốt thì một sự bình an giả tạo được duy trì nhờ một xử sự khôn khéo của kẻ thù hơn là nhân đức đích thực, một sự trả đũa dữ dội của những đam mê độc hại. Ngôi nhà không thể đứng vững trước bảo tố nếu không được xây dựng trên nền đá Chúa Kitô, trên Lời Thiên Chúa và sống nhờ Thần Khí của Người, có thể nói là chính Tình Yêu của Người. Trên hết đối với người khai tâm, có một nguy cơ là sự trống rỗng, chỉ đơn giản là sự trống rỗng và không phải là một sự biểu lộ tình cảm cá nhân đối với Thiên Chúa và người đồng loại, được đặt trên nền tảng một đời sống khổ chế, đạo đức, chịu thử thách và khôn ngoan.
Một ngày kia, các môn đệ của Chúa Giêsu không thể chữa được một người bị thần ô uế dày vò. Chúa Giêsu đã trừ được quỷ, các môn đệ muốn biết tại sao mình lại không đuổi được quỷ ra ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời các ngài: “tại anh em kém lòng tin. Quả thật, Thầy bảo thật anh em, nếu anh em có niềm tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: rời khỏi đây, qua bên kia nó cũng sẽ qua, và cũng chẳng có gì mà anh em không làm được. Giống quỷ không ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt1,20-21). Lòng tin, cầu nguyện và ăn chay.
Chúa Giêsu đã chữa được bệnh tật và trừ được quỷ. Sau khi ma quỷ nhập vào, thì thủ lĩnh thế gian này sẽ nô lệ hóa người ấy. Chúa Giêsu đến thế gian không chỉ để thi thố bác ái mà còn để chiến đấu với sự dữ. Marcô diễn tả lời trừ quỷ trong ngôn ngữ của cuộc chiến (Mc 1,23-27;3,27). Chữa bệnh và trừ quỷ là những kiểu nói diễn tả thời đại của ơn cứu độ và là thời hủy diệt của vương quốc Satan (Lc 11,20). Chính nhờ niềm tin vào quyền năng này mà thánh Antôn và các đan sĩ tiên khởi đã nhất tâm chiến đấu với kẻ thù trong sa mạc.

HOẠT ĐỘNG

Chúng ta có thể bắt gặp tác động của Thần Khí trong Giáo Hội tông truyền. Thần Khí tỏ mình cách hiển nhiên qua sự sáng tạo, sức mạnh và nhiều dấu lạ. Sự phân định là tương đối dễ.

THÁNH PHAOLÔ

Bức tranh thánh Phaolô vẽ mang nhiều sắc thái. Đời sống kitô hữu là một cuộc phân định không ngừng, một sự tập trung xem xét liên lỉ vừa chú ý chống lại tội lỗi vừa không ngừng tìm kiếm điều thiện. Đối với một người trong thế giới hiện tại, phân định thần khí là để nhận biết ý muốn của Thiên Chúa hầu xuyên suốt đời sống của họ là bài ca yêu mến (Rm1,25; 2,18). Điều này đòi hỏi một sự biến đổi từ trong bản thể của chúng ta. Do đó, chúng ta sẽ hướng về cái gì “là”. “Thưa anh em, Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến tâm hồn anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa. cái gì là tốt cái gì đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,1-2).
Khả năng phân định sẽ lớn lên đồng thời với khả năng yêu mến. Chính nhờ sự “khéo léo” của lòng mến, chứ không dựa vào xét đoán “lạnh lùng” của lí trí. “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày càng thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt nhất” (Pl1,9-10). Có một sự trưởng thành và viên mãn trong Đức Kitô (Ep4,13). Sự trưởng thành và viên mãn này đi vào thực hành đức ái trong Hội Thánh. “Như vậy, chúng ta sẽ còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi dạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa những trò bịp bợm của những kẻ xảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. Nhưng sống theo sự thật và tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu” (Ep 4,14-15). Tác giả thư Do thái cũng quảng diễn cùng tư tưởng: “thức ăn đặc thì dùng cho những người trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt 5,14).
Sự hoàn hảo thuộc về mức độ trưởng thành kitô giáo, nếu như nó bao hàm một sự dẫn dắt và tập luyện liên lỉ tất cả tiềm năng riêng của chúng ta thì không hẳn phải là tài xoay xở của thế gian này mà là ơn khéo liệu của Thần Khí, bởi lẽ nó chứa đựng sự thấm nhuần chiều kích thiêng liêng sâu xa “vậy ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1Cr2,11-12).
Không phải các kitô hữu đã phân định các thần trí mà là những người thánh Phaolô gọi là “hoàn hảo” hay “thần thiêng”; không phải là họ cho mình đặc ân tìm thấy và làm nên sự “hoàn thiện” mà chính là vì có một cảm nghiệm thiêng liêng thật sự, họ biết phân định một lời mời gọi đi tới sự hoàn thiện trong những hoàn cảnh cụ thể của hiện hữu đời sống. Thêm vào đó, cảm nghiệm của họ không đơn thuần chỉ là ân sủng thường mà là hoa trái của một đặc sủng.
Đặc Sủng này không nhất thiết phải được mỗi người biết đến cách ngoạn mục. Nó có thể rất kín đáo nhưng hiệu quả nhờ tính sắc sảo, chắc chắn và viên mãn, không cần phải khác thường. Tính cách quan trọng của đặc sủng không hệ tại ở sự khác thường mà là ở khả năng sinh hoa trái và có tính xây dựng. Đối với thánh Phaolô, sự phận định có liên quan đến ơn nói tiên tri[1] và dường như nó tạo nên một nhóm riêng biệt tương tự phần thưởng của ngôn ngữ và ơn biện bác. Ơn tiên tri và sự phân định hé mở ý định lòng người đồng thời với thánh Phaolô, giá trị bí nhiệm là đây. Chống lại thói điên cuồng của người Côrintô về tặng ân ngôn ngữ, người đã lên án từ cái nhỏ nhặt mà cộng đoàn thu được do tặng ân không thể truyền đạt này, hoa trái của ơn tiên tri và phân định sẽ là: “còn nếu mọi người đều nói tiên tri, mà có người không tin hoặc người ngoài cuộc đi vào, người ấy sẽ thấy mình bị mọi người khiển trách, mọi người xét xử. Những điều bí ẩn trong lòng người đó sẽ bị lộ, người đó sẽ sấp mình xuống mà thờ lạy Thiên Chúa, tuyên bố rằng: Hẳn thật, Thiên Chúa ở giữa anh em” (1Cr14,24-25).

CHUẨN MỰC PHÂN ĐỊNH:

THÁNH PHAOLÔ
Theo thánh Phaolô thì sự phân định các thần khí được đặt trên nền tảng giáo huấn của Tin Mừng: xem quả thì biết cây. Tin Mừng cho nhiều ví dụ về hoa trái này. Tin Mừng quảng diễn đời sống hiện thực, vậy chúng ta không nên mong chờ một bản trình thuật có thứ tự lôgic. Hoạt động của Chúa Thánh Thần được nhận biết nơi việc làm với tất cả sự phức tạp của đời sống. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận biết giữa 3 nguyên tắc cơ bản của sự phân định là: sự thật, quyền năng và lòng mến.

1. Sự Thật
Tuyên xưng Chúa Kitô
Sự thật nền tảng chính là nhận biết Chúa Kitô. Tất cả niềm tin và sứ vụ của thánh Phaolô được đặt nền tảng trên sự bày tỏ vinh quang và sự đồng hóa với Giáo Hội trên đường Damas (Gl1,15-19; 1Cr15,3-8). Vì vậy đối với thánh Phaolô, quy luật tối thượng cho hoạt động của Thần Khí là thái độ sống với Chúa Kitô. “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!” Cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa” nếu người ấy không ở trong Thần Khí.
Ánh sáng và Bình an
Cưu mang chân lý là công việc của Thần Khí, hoạt động này quang tỏa ánh sáng và bình an: “xưa ánh sáng là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, ánh sáng lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật. Anh em hãy xem điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng cộng tác vào những vô ích của con cái bóng tối” (Ep 5,8-11).
“Và ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, bởi vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo bình an” (1Cr14,32-33).
“Hướng đi của tính xác thịt là sự chết còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm8,6).
“Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống nhưng là sự công chính, bình an và niềm vui trong Chúa Thánh Thần” (Rm14.17).
2. Quyền Năng
Thánh Thần tỏ mình qua những dấu lạ quyền năng[1]: những điềm thiêng dấu lạ, dựa vào ơn tái sinh của Lời Chúa, can đảm trước mọi gian truân (Tx1,4-5; Rm15,18-19). Tin Mừng không do sức người phàm nhưng do bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (1Cr2,4-5).
3. Tình Yêu
“Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ghen tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi báo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì chúng ta hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl5,19-25).
“Vì bao lâu giữa ánh sáng có sự ghen tương và cải cỏ, thì ánh sáng không phải là những con người sống theo tính xác thịt và sống theo thói người phàm sao?” (1Cr3,3).
Thần Khí là quà tặng của tình yêu Thiên Chúa (Rm5,5). Đó là tình yêu độc nhất. Nếu không có tình yêu thì dù có công việc vĩ đại nhất cũng vô ích.
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi mà chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr13,1-3).
Tình yêu tự nguyện là một bản thể thiêng liêng đích thực.
“Đức mến thì nhẫn nhục hiền hậu, không ghen tương, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr13,4-7).
Luật của Tình Yêu là luật của Thần Khí. Nhờ Thánh Thần Tình yêu mà mọi thành phần được sống động và Ngài cũng là hồn của Thân Mình Chúa Kitô. Vì vậy, những ân huệ thật sự này giúp “cảm hóa” Giáo Hội và góp phần làm cho Chúa Kitô toàn diện được an bình và hiệp nhất (1Cr14,4.12.26: xem cả chương). Dù biết viễn cảnh của mình đang lấn át nhưng thánh Phaolô vẫn nhận ra nó với một truyền thống quyền lực (1Cr15,3-8). Đức ái chính là Giáo Hội.

CHUẨN MỰC PHÂN ĐỊNH:

THÁNH GIOAN
Gioan nhà chiêm niệm cho chúng ta một viễn cảnh càng ngày càng hiệp nhất và tuyệt đối. Ngài chiêm ngắm vai trò cứu độ như một cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối. Chọn lựa mang tính quyết định đối với mọi người là đón nhận hay khước từ ánh sáng nơi con người Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa, Đấng đã thành xác phàm. Trong Tin Mừng, chính sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô tạo nên sự chia rẽ. Trong lá thư của thánh Gioan, Giáo Hội đã sử dụng tiêu chuẩn này để phân biệt những người thuộc về Chúa Kitô.
1. Tin Mừng
Nhờ diện đối diện với Chúa Giêsu, sự phân biệt mang tính triệt để và gần như là trực diện; nguyên tắc cảm hóa tâm hồn được soi sáng nơi ánh sáng tràn đầy của ban ngày. “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông không chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa” (Ga8,47). Nhờ một sự thông tri huyền nhiệm, “con cái ánh sáng” (12,36) nghe tiếng nói Chúa Kitô và nhận ra tiếng nói ấy(10,27;18,37). Những người làm điều gian ác thì sợ ánh sáng (3,20), và không thể nghe được tiếng Người (8,43). Họ làm những việc thuộc về ma quỷ, cha của họ (8,41.44).
Lời trối sau bữa tiệc ly, hàm ý đầy tràn sự hứa hẹn của Thánh Thần, Đấng ban cho chúng ta nhiều ân huệ khả dĩ giúp chúng ta phân biệt được đâu là hoạt động của Người:
-Thần Khí không phải là sở hữu của cá nhân mà là nền tảng cho lời chứng, cho đức dũng mãnh và tinh thần chiến đấu (15,27;26,8).
-Thần Khí không mang đến một giáo lý mới cũng không mang đến một Tin Mừng mới mẽ mà Ngài mặc khải sự giàu sang của lời và con người lịch sử của Chúa Kitô.
“Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (16,13-15).
-Cứ dấu này người ta nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu là chúng ta yêu thương nhau (13,35).
Cuộc thương khó của Chúa làm lộ ra những toan tính và dạ tâm nham hiểm của Ma Quỷ và bè lũ của chúng. Cuộc thương khó cũng cho thấy tình yêu thập tự đã chiến thắng và đó là con đường mà Thánh Thần đã dẫn Chúa Giêsu đi. Gioan, đã chiêm ngưỡng một Chúa Kitô chịu đâm thâu, Đấng đã ban Thần Khí cho Hội Thánh (19,30), đã ý thức được rằng giờ phút này Hội Thánh được sinh ra, đã nhận lấy từ Thánh Thần bí nhiệm về sự phân định mà Chúa Giêsu đã có.
2. Thư Thứ Nhất Của Thánh Gioan
Lá thư này là một bản văn có tính phân đỉnh cao. Nó được viết ra để giúp cho sự phân định giữa đức tin thật sự và những giáo lý sai lạc. Nó làm cho chúng ta lưu tâm cách đặc biệt bởi lẽ nó nằm ở vị trí trung tâm của kinh nghiệm Kitô Giáo, một thứ kinh nghiệm mà chúng ta đang cố gắng sống: thông hiệp với Thiên Chúa và với anh chị em trong Chúa Giêsu.
Hiệp thông, hiện hữu, thuộc về: tất cả những thuật ngữ này đều quảng diễn mầu nhiệm, mầu nhiệm sự sống đời đời, đó chính là Thiên Chúa, sự sống đời đời nơi mà Thiên Chúa hằng hữu, nơi mà chúng ta được sống chiều sâu, huyền bí nhất trong chính hữu thể chúng ta. Gioan là một nhà chiêm niệm hiện thực vĩ đại. Thực tại Ngôi Lời Thiên Chúa thành xác phàm phải được đáp trả cụ thể nơi đời sống đức tin của những người tin. Đức tin không ngăn cản lý trí đến với chân lý. Đây là vấn đề “thực hành chân lý” (1,6), hay có thể nói, “yêu mến trong ánh sáng sự thật[1]” và nhờ đạo lý của một nguyên lý ánh sáng và lòng mến: Chúa Thánh Thần, Đấng đang hoạt động trong chúng ta và là Đấng thông ban đời sống thiêng liêng.
Đối với thánh Gioan, tiêu chuẩn này thật đơn sơ. Nếu chúng ta là con cái Thiên Chúa thì chúng ta sẽ là và sẽ sống như Người. Thiên Chúa là công bình, là ánh sáng, là tình yêu. Tình yêu này, sự công bình này, ánh sáng này được quang tỏa nơi Chúa Kitô. Những ai sinh bởi Thiên Chúa thì đi trong tình yêu, trong sự công chính, trong ánh sáng và đi trên con đường Chúa Kitô đã đi qua. Những ai đi trong bóng tối và sự thù ghét đều cho thấy họ không được sinh ra bởi Thiên Chúa nhưng bởi ma quỷ.

Thiên Chúa
Dấu chỉ con cái
Thiên Chúa
Dấu chỉ của ma quỷ

Là ánh sáng (1,5); trong Lời Nhập Thể
sự sống đời đời được mặc khải cho chúng ta. (1,2)
- Đức tin: tin vào Đức Kitô (5,1) và tuyên xưng Người (2,23).
- Thành thật nhìn nhận mình tội lỗi (1,9).
- Làm theo sự thật (1,6) trong tình yêu (1,7).
- Không tin (2,22).
- Phản Kitô
- Dối trá.
- Sai trái.
Là sự công chính (1,9), sự công chính của Người (trong sự khôn ngoan Kinh Thánh) được mặc khải trong công trình cứu chuộc của Đức Kitô (2,1-2).
- Thực thi công bình (2,21).
- Tuân giữ lề luật (2,3-5).
- Khiết tịnh như Chúa Kitô thanh khiết (3,3).
- Sạch tội (3,9).

- Tội lỗi (3,9).
- Ham muốn xác thịt, sự thèm muốn của con mắt, của thế gian (2,15-17).

Là tình yêu (4,8.16)
Quà tặng của tình yêu và sự hiệp thông. Tình yêu của Chúa Cha được mặc khải cho chúng ta trong sự hy sinh của Chúa Kitô (4,9-10) và được thông ban cho chúng ta nhờ Thánh Thần.
- Yêu mến Thiên Chúa
- Giữ giới răn Người là yêu thương anh chị em mình (4,12-17), như là con cái Thiên Chúa (5,2) như Đức Kitô đã yêu (2,6;4,17)
- Hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong cầu nguyện (3,21-22)
Và cuộc phán xét của Người (2,28; 3,21).
- Thù ghét

- Sát nhân

- Sợ hãi

Thay vì nói về sự phân định, thì ngày hôm nay chúng ta sẽ cảm nghiệm về nó. Chúng ta sẽ đọc lá thư của Gioan và chúng ta sẽ để cho Lời Chúa xét đoán chúng ta. Phải chăng có sự tương hợp trong sự thật sâu thẳm nhất của chúng ta, giữa cách chúng ta tin, cách chúng ta động và hiện hữu? Mỗi người trong chúng ta, trong sự kín nhiệm của con tim mình, phải trả lời cho được vấn nạn này.
Lá thư gồm 3 kiểu nói loại suy. Thứ nhất (1,5-2,28), trên hết là kết hợp với Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng. Thứ hai (2,29-4,6) là kết hợp với Thiên Chúa, Đấng là sự công chính. Thứ ba (4,7-5,12) kết hợp với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu. Mỗi một kiểu nói đều quy về chủ đề công minh (hoặc công chính), tình yêu và đức tin, trong trật tự này và mỗi lúc ở một cấp độ sâu hơn, đạt tới đích điểm để rồi ở kiểu nói thứ ba mọi sự đều xuất phát từ tình yêu độc nhất.
Chúng ta hãy tạo ra khoảng trống thing lặng giữa việc đọc mỗi kiểu đã nói: chúng ta hãy để cho Lời Chúa cưu mang chúng ta xuyên qua tình yêu (3,9)[1].
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu...Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội thay cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta” (1Ga4,7.8.10-13).

Dầu Của Thần Khí

Trong Gioan, quà tặng của Thần Khí nói cho đúng thì không phải là một tiêu chuẩn phân định. Đúng hơn đó là một nguồn mạch của đức tin và đức mến.
Nhưng Gioan vẫn nhấn mạnh chiều kích nội tâm trong hoạt động của Thần Khí hơn Phaolô. Lý luận sau cùng sự thật không xuất phát từ nguồn gốc con người. Người tin thì được “Thiên Chúa dạy dỗ” (Ga6,45), được dẫn vào sự thật nhờ thấm nhuần hoạt động của Thần Khí, mà Gioan đã so sánh dầu thánh hóa với dầu thường, bao gồm tất cả những đặc tính: mềm dẻo, quyền năng, hiền lành và thấm nhuần sâu xa. “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1Ga2,20) “...Dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Kitô ở lại trong anh em, và anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa”(1Ga2,27).
Tuy nhiên, ánh sáng nội tâm không bao giờ phủ nhận mặc khải ngoại tại của Giáo Hội. Vì chỉ có một nguồn mạch duy nhất. “Ai biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta. Ai không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta. Chúng ta cứ dựa vào đó mà nhận ra Thần Khí dẫn đến sự thật và Thần Khí làm cho sai lầm” (1Ga4,6 hay 1Ga5,6-9).

Một Viễn Cảnh Toàn Diện

Cần nên ghi nhớ rằng đối với thánh Gioan sự phân định Thần Khí mang tính toàn thể và tổng hợp. Đó là một viễn cảnh toàn diện ở đó mọi sự được ôm ấp và mỗi yếu tố được sắp xếp theo giá trị đích thực. Nếu tuyên xưng Lời Nhập Thể trong sự kết hợp với Hội Thánh, thì đức tin cũng là một kinh nghiệm nội tâm trong Thần Khí: một sự kết hợp trong tình yêu và gặp gỡ thân tình với những con người thiêng liêng, trao ban tình thương cho tha nhân bằng hành động và sự thật. Tất cả những quà tặng này đều được trao cho nhau: nếu nơi đó một trong những món quà bị thiếu đi thì chúng ta cũng có thể nắm lấy những món quà khác.
Những con người chiêm niệm, những con người cầu nguyện được nên một trong nguồn mạch nội tại của tình yêu và sự thật; đan sĩ trao ban và cụ thể hóa tình yêu này cho tha nhân và toàn thế giới.


CHƯƠNG 12 PHÂN ĐỊNH THẦN KHÍ TRONG TRUYỀN THỐNG ĐAN TU

Ởđây không thể thấu triệt toàn bộ sự phong phú chứa đựng nơi các vị Tổ Phụ sa mạc. Sự phân định các Thần Khí hình thành nên sự phân loại đời sống của mỗi kitô hữu và được thực hành trong bối cảnh lịch sử của mỗi thời đại.

CÁC TỔ PHỤ SA MẠC

Chúng ta sẽ giới hạn trong các bản văn có liên quan đến kinh nghiệm của các đan sĩ đầu tiên. Các Tổ Phụ sa mạc rất quan tâm đến sự phân định các Thần Khí[1]. Nhờ vào đường lối này mà đan sĩ được gìn giữ khỏi nhiều dịp tội bên ngoài. Bởi vậy, cuộc chiến trở nên nội tại hơn và diễn ra trong mức độ “tư tưởng”; có thể nói, những gợi ý, những động lực tự phát và những quan niệm đều nói lên sự quan tâm và cho phép sự đồng thuận tự nguyện. Nguồn gốc của những tư tưởng này có thể là Thiên Chúa (hay một thiên thần), con người tự nhiên chúng ta, hay là ma quỷ. Trích dẫn bản văn của thánh Phaolô, các vị niên trưởng đã nhận ra hoạt động của ma quỷ sau khi chịu thử thách. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep6,12).
Antôn đã đi vào cô tịch để chiến đấu chống lại ma quỷ trong sa mạc, nơi dành riêng cho ngài. Các đan sĩ sớm tạo nên một chốn khá quan trọng để có thể nhận diện ma quỷ, để biết tâm lý của họ, để biết các mối liên hệ đang tồn tại giữa họ...vv. Họ nói về mình một cách rất đơn sơ và đầy nhân tính (đối với họ, ma quỷ ít nhiều có một hiện thân mờ ảo). Chỉ có Evagrius mới có cách tiếp cận mang tính thần học hơn trong nhiều hướng tỉ mỉ. Tuy nhiên, họ đã có một kinh nghiệm thực tế về cuộc chiến thiêng liêng và rời bỏ những nhận xét thường nghiêm trọng và diễn biến của cám dỗ mà đan sĩ mọi thời đại đã sớm nhận ra.

THẬN TRỌNG

Giữa truyền thống đan tu chúng ta tìm thấy ý niệm được diễn tả bằng tiếng Hy Lạp “diakrisis” được dịch sang tiếng Anh là “discretion” (suy xét, thận trọng). Có 2 nghĩa: 1.Biện phân các Thần Khí; cẩn trọng trong việc hướng dẫn người khác và chính mình; 2.Khả năng phân định và khả năng cân nhắc thích đáng. Các đoạn văn đôi khi làm sáng tỏ ý nghĩa này, có lúc lại làm sáng tỏ ý nghĩa khác nhưng cả hai đều có mối liên hệ mật thiết.
Cassian đã mặc cho những nhận xét của viện phụ Môsê một sự cẩn trọng trong cuộc đối thoại thứ hai thuộc bộ sưu tầm của ngài, sau khi giải thích về mục tiêu mà người đan sĩ tìm kiếm, và ngay cả trước khi nói về một cuộc chiến thiêng liêng. Lý do về sự cẩn trọng này là một trong những đạo lý thiết yếu mang tính trọn vẹn đối với đan sĩ và đặc biệt đối với những người khai tâm.
Viện phụ Môsê đã đặt sự phân định các Thần Khí[1] lên hàng đầu. Người đã diễn tả như một cuộc đối thoại của các vị niên trưởng mà chủ tọa là thánh Antôn (ngài đã chất vấn xem điều họ quan tâm là gì), nhân đức khả dĩ giúp đan sĩ thoát khỏi cám dỗ và những sự dối trá của ma quỷ và để họ đi trực tiếp lên đỉnh cao của sự hoàn thiện. Mỗi vị cao niên đều gợi ý một nhân đức: yêu thích chay tịnh, từ bỏ mọi sự, cô tịch và sự kín nhiệm của sa mạc, thực hành tình bác ái huynh đệ...vv.
Cuối cùng Antôn trả lời:
Tất cả các việc thực hành mà anh em vừa lưu ý đều hữu ích cho những ai khao khát Thiên Chúa và ước mong đến với Ngài. Nhưng khi phần thưởng có giá trị đến với họ thì những kinh nghiệm hiểm nghèo, và vô số thất bại của nhiều ẩn sĩ lại không còn xuất hiện nữa. Nhiều người trong họ mà chúng ta nhìn thấy được trao ban cho khả năng sống chay tịnh nhiệm nhặt nhất, khơi dậy niềm cảm mến đối với cô tịch, bỏ mình để đi vào tình trạng hoàn toàn trần trụi, để rồi họ không cho phép mình giữ lại thứ lương thực mà họ dự trữ dù là một ngày, ngay cả một đồng cắc, họ hăng say chu toàn với lòng yêu mến. Thế rồi, bổng dưng họ bị rơi vào tình trạng ảo tưởng; họ không thể hoàn thành chương trình mà họ đã dự phóng; họ làm hao mòn lòng nhiệt thành tốt đẹp nhất và một đời sống đáng được ca tụng với một kết cục tồi tệ.
Nhưng có thể chúng ta sẽ rõ hơn khi nhận được nhân đức hiệu quả nhất đưa chúng ta đến với Thiên Chúa, nếu như chúng ta tìm ra nguyên nhân chính xác của ảo tưởng cũng như tình trạng sa sút của chúng ta. Giờ đây, các nhân đức mà chúng ta đã xác định đều đang ở trong chúng ta; chính vì thiếu đi đức cẩn trọng mà họ đã không thể kiên trì cho tới cùng. Đúng ra, chúng ta không thể thấy được một nguyên nhân khác trong sự suy nhược của họ nhưng vì họ không có cơ hội để được hướng dẫn bởi các vị niên trưởng và vì vậy họ không thể tập được nhân đức này, nhân đức vốn giúp chúng ta duy trì khỏi rơi vào hai thái cực (bất cập và thái quá) và dạy đan sĩ luôn đi con đường đáng quý và giúp họ không bị lạc đường, không bên phải trên con đường kiêu căng tự phụ một cách điên rồ và nhiệt thành thái quá đến nỗi vượt qua ngoài giới hạn cho phép, cũng không bên trái theo hướng lười biếng, trụy lạc, ẩn dưới lý do khổ chế thân xác, một tinh thần uể oải lãnh đạm.
Tin Mừng đã nhắc tới sự cẩn trọng như con mắt và cái đèn của thân thể: “Đèn thân thể anh chính là con mắt của anh. Nếu mắt anh sáng thì toàn thân anh sẽ đầy ánh sáng; nhưng nếu mắt anh mù tối thì toàn thân anh sẽ đầy bóng tối”. Đúng hơn, xem xét tất cả tư tưởng cũng như hành động của một người, sàng lọc và soi chiếu dưới ánh sáng tất chúng ta sẽ rõ. Nếu con mắt nội tâm bị bệnh; nói cách khác, nếu chúng ta thiếu cả tri thức khả năng phán đoán đáng tin cậy và chúng ta lừa dối mình bằng sự sai trái và kiêu căng tự phụ, thì toàn thân chúng ta sẽ đầy bóng tối; biết mình và mọi sự đồng thời khám phá mọi sự nơi mình, tư tưởng và hành động đều sẽ bị bóng tối tràn ngập; bởi vì thói trụy lạc sẽ làm chúng ta bị mù quáng và đam mê là mẹ của bóng tối. “Nếu ánh sáng trong anh mà tối đi”, Đấng Cứu Thế nhắc lại, “thì sẽ tối biết chừng nào!” không ai có thể nghi ngờ được rằng nếu chúng ta có một khả năng phán đoán sai và lệch lạc trong bóng tối của sự dốt nát thì tư tưởng chúng ta, việc làm chúng ta sẽ bắt nguồn từ chúng như là nguồn mạch để rồi chúng ta sẽ bị bao phủ bởi bóng tối của tội.
Tất cả đều theo nguyên tắc “cẩn trọng là mẹ và là trung tâm của mọi nhân đức”. Kết cục sẽ ra sao?
Sự cẩn trọng thật sự được dành tặng cho một đức khiêm hạ thật sự. Thử thách này sẽ rời xa phán đoán của các vị cao niên về tất cả những hành động và cả tư tưởng trong một thách thức mà người ấy không còn tin vào mình nữa...
Kỷ luật này không chỉ huấn luyện đan sĩ bước đi trên đường công chính nhờ con đường cẩn trọng đích thực; mà còn giúp người ấy đạt tới một sự miễn dịch trong cuộc đối đầu với mọi mưu chước cám dỗ của kẻ thù. Để khỏi rơi vào ảo tưởng, người ấy không cậy dựa vào sự phán đoán cá nhân mình nhưng để cho gương lành các vị cao niên thành luật sống của mình và mọi quỷ kế của kẻ thù sẽ bị vô hiệu hoá khi một người không giấu giếm những tư tưởng sai trái đáng hổ thẹn phát sinh trong lòng, nhưng sẵn sàng giao nộp chúng cho sự phân định chín chắn của các vị cao niên, để rồi khi đã biết, người ấy có thể tự do chọn lựa để chúng tiếp tục hoặc dứt khoát khước từ.
Khi chúng ta đưa một tư tưởng xấu xa ra ánh sáng ngay thì lập tức nọc độc của chúng bị tiêu diệt. Ngay cả trước khi sự cẩn trọng có thể ngăn cản nó, thì con rắn độc, có thể được lôi ra từ bóng tối của hang ổ, ẩn kín của người ấy, để đưa nó ra ánh sáng... nhanh chóng đánh tan sự trốn tránh; và gợi ý nguy hại của nó có thể làm cho chúng ta bị thống trị trong sự đánh giá rằng chúng sẽ cư ngụ một cách kín đáo trong sâu thẳm lòng chúng ta. Có thể sự sai trái đáng hổ thẹn sẽ không bao giờ kìm hãm được đan sĩ.
Có lẽ không một thói xấu nào có khả năng đưa đan sĩ đến tình trạng suy sụp nhanh hơn thái độ khinh miệt những lời khuyên của các vị cao niên và sự tự tin vào các phán đoán của ý riêng cũng như cái nhìn cá nhân. Mỗi ơn gọi ngay cả sự khổ hạnh nhất thì cũng cần một bậc thầy để hướng dẫn đúng đắn. Đó là tất cả lý do mà người môn đệ trong cuộc chiến thiêng liêng cần phải lưu ý đến các thế lực ẩn dấu và huyền bí.

ĐỨC CẨN TRỌNG
TRONG TU LUẬT

Chúng ta thường ca ngợi sự khôn ngoan và cân nhắc kỹ lưỡng của luật Dòng Chartreux: thánh Brunô và Guigo dường như đã sở hữu những phẩm chất này ở một mức độ cao. Tu Luật mới theo truyền thống này tuyên dương đức cẩn trọng giữa những nhân đức nền tảng của đời sống chúng ta. “Ở giữa nhiều giá trị mà ứng sinh muốn dâng mình trong đời sống cô tịch thì nên ưu tiên đặc biệt, một phán đoán lành mạnh và cân nhắc kỹ lưỡng, có tính quan trọng hàng đầu” (TL1.8.2). Mọi thứ khuyết điểm đều ít nhiều có thể chữa được bằng ân sủng của Thiên Chúa. Thiếu sự phân định thì khó chữa được: không có sự biện phân thì không có nền móng để xây dựng - ít nhất, trong trường hợp cuối cùng khi một vấn nạn mang tính nghịch lý tự nhiên đối với luận lý và phê bình đúng đắn. Trung thành với quy tắc bên ngoài không thể làm nên nó[1].
Thường thì truyền thống đan tu đòi hỏi ứng sinh đời sống cô tịch để trải qua một thử thách dài trong đời sống cộng đoàn. Đan sĩ phải đương đầu với kẻ thù, một đấu một phải được trải nghiệm. Đối với chúng ta thì nhiều điều xảy ra một cách khác biệt. Một đời sống cô tịch hoàn toàn cho đến cùng, cũng không phải là mục đích của chúng ta. Từ đầu đến cuối, đan sĩ có một sự hợp nhất giữa đời sống cộng đoàn và cô tịch trong sự quân bình khéo léo. Do vậy, đan sĩ trẻ “được đặt vào nơi cô tịch ngay từ đầu hành trình của người ấy và đã từ bỏ ý riêng” (4.33.2). Người ấy phải có khả năng biện phân ơn thúc đẩy của Thần Khí khả dĩ giúp mình tự linh hướng cho mình. Điều này bao gồm “một tâm hồn trưởng thành tự làm thầy cho mình và biết cách ôm ấp tất cả cách ngọt ngào để theo phần tuyệt hảo mình đã chọn lựa” (Tu Luật1.6.5).
Đan sĩ trẻ được coi như một người trưởng thành. “Bây giờ không còn là một đứa bé nữa mà là một người lớn, người ấy không bị hất tung lên mỗi khi đón nhận làn gió mới, nhưng đúng hơn hãy để người ấy học biết cách làm vui lòng Thiên Chúa và thực hiện với ý chí tự do của mình, yêu thích sự khôn ngoan đức độ để rồi những người con cái tự do của Thiên Chúa phải quan tâm đến điều mình sẽ phải trả lẽ trước Thiên Chúa” (4.33.2). Lưu ý là tự do con cái Thiên Chúa không phải là tình trạng hỗn loạn cũng không phải là tự do làm điều mình muốn (muốn làm gì thì làm); quan trọng là nhận ra điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa và thi hành ý chí tự do của mình. Nhờ vậy có thể có một sự kiên định chắc chắn mang tính đặc trưng, một khả năng để phân định các ý tưởng và dự phóng trong tâm trí như là một năng lực trong việc tuân giữ các nguyên tắc một cách xác tín và một ý chí có đầy tự do trước mọi sức ép để thực hành điều mình phải làm, đã thấy theo thánh ý Thiên Chúa.
Đan sĩ trẻ “không phải là một trẻ nhỏ nhưng là một người lớn”. Câu này điễn tả một tư tưởng. Hẳn thật phải có một sự trưởng thành cách chắc chắn để có thể vào lều, nhưng nhiều lần sự trưởng thành này ít nhiều bị thiếu hụt nơi những người trẻ trong một ngày (có lẽ là mỗi ngày, một mức độ chắc chắn). Thế giới và những mẫu hình lý tưởng của nó đang trải qua sự thay đổi nhanh chóng trong mớ hỗn độn, nền tảng gia đình trở nên khan hiếm trong lý tưởng, kết cấu đời sống đan tu thì không xứng hợp. Những người trẻ tìm đến với sự trưởng thành mang tính con người, đặc biệt là trưởng thành cảm xúc chậm hơn trước đây. Họ thường phải chịu đựng những vết thương sâu và nhiều khó khăn. Một ơn gọi tu sĩ không thay đổi được tất cả điều này với làn sóng của một cây gậy quyền lực. Nhưng kinh nghiệm về Thiên Chúa sẽ là trung tâm của ơn gọi, nó cung cấp một tâm điểm xoay quanh một nhân cách có thể hình thành hoặc biến đổi nhưng phải tiệm tiến, nhờ một lòng trung thành đau đớn để hình thành một phôi thai thiêng liêng, nhờ những thất bại và những thử thách, nhờ một sự khởi đầu lại liên lỉ đã làm bùng cháy lòng tin tưởng phó thác. Và một điều gì đó có khả năng vực dậy một cây non yếu ớt dưới ánh mặt trời, đó là sức ấm của tình yêu Thiên Chúa, sức ấm này làm cho nó có sức sống mới và lôi cuốn nó đến với Ngài.
Nhưng đức ái thiêng liêng cần một khuôn mặt con người để có khả năng đi sâu hơn vào mục đích của tập sinh. Điều này mặc khải tầm quan trọng của khía cạnh cộng đoàn trong đời sống chúng ta. Sự trưởng thành cảm xúc không thể có được nếu không có một lượng nhỏ sự tiếp xúc con người. Phẩm chất và sự chân thành trong mối tương quan giữa các tập sinh và cha thiêng liêng, cũng như giữa chính các tập sinh[1] với cộng đoàn sẽ quyết định cho sự trưởng thành này.
Nhưng trên hết hấp lực của cô tịch đã dẫn đưa các ứng sinh vào Dòng Chartreux, khi vào rồi họ khao khát một cảnh cô tịch triệt để hơn. Họ chịu đựng những sự gò bó của đời sống cộng đoàn với nhiều khó khăn, mà không cần biết sự cần thiết của nó như thế nào. Sự cô tịch có ích cho tâm hồn những ai thanh sạch, bình an, khiết tịnh và những người có khả năng an tĩnh trong chiêm niệm. Để tìm vào đó mà không hoàn tất công việc này – công việc thường là quá trình dài gian khổ – thì không khôn ngoan. Ngay cả những người có khởi đầu tốt đôi lúc cũng bị cám dỗ muốn thoát khỏi tiến trình hình thành và muốn độc lập cách vội vã.
Đây là một cám dỗ cổ điển mà Cassian nói rất đúng về những người muốn “một thứ tự do tự phụ và chết người”.
“Họ không muốn trả bất cứ giá nào cho sự từ bỏ các thói quen cũng như tội lỗi xấu xa của mình. Họ không thể chịu lâu hơn được cái ách của sự khiêm hạ và kiên nhẫn. Họ khinh miệt các chỉ dẫn của các vị cao niên. Họ tìm kiếm những chiếc lều hẻo lánh và muốn sống một mình để không ai có thể làm phiền họ, họ có thể được danh tiếng giữa mọi người nhờ sự kiên nhẫn quảng đại hay khiêm tốn. Nhưng...vẫn không đủ để cho thấy thói xấu của họ được sửa chữa; thậm chí họ còn tệ hại hơn”[1].
Các đan viện đầu tiên ở Ai Cập đã được khai sinh từ khao khát nồng cháy tìm kiếm Thiên Chúa, Đấng đã quy tụ họ quanh một người Cha thiêng liêng để được Ngài dẫn dắt và để sinh hoa trái nhờ sự trợ giúp thiết yếu mà đức vâng phục mang lại hầu chiến thắng kẻ thù dai dẳng nhất nhờ vào chính sự phán đoán và lòng mến.
Để đi vào sự trưởng thành trong tự do của một người con cái Thiên Chúa, thì đan sĩ trẻ cần tự nguyện đặt lên vai mình cái ách mang lại lợi ích. Nếu như người ấy quá kiêu căng tự phụ mà nghĩ rằng mình đã trưởng thành ngay từ đầu rồi, thì chắc chắn người ấy sẽ thất bại.
“Tuy nhiên, đừng ai tự cho mình là khôn ngoan; bởi chính sự sợ hãi làm cho người ấy bị sao nhãng việc mở rộng lòng mình trước một sự hướng dẫn giúp khai thông, để rồi người ấy đánh mất đi giá trị của sự phân định và sẽ đi ít nhanh hơn mức cần thiết, hoặc quá nhanh và sẽ làm cho mệt mỏi, hoặc sẽ ngừng bước trên đường và sẽ rơi vào giấc ngủ im lìm” (Tu Luật 44.33-2).
Sự phân định đòi hỏi khả năng phán đoán và cân nhắc kỹ. Nhưng đó không phải là ý nghĩa định hướng cho một hạng người tầm thường trung lưu muốn chạy trốn mọi nỗ lực và sự hy sinh. Tinh thần khổ hạnh được khám phá trong ánh sáng đức tin, dựa vào sức mạnh của Phúc Âm chứ không dựa vào sự khôn ngoan thế gian (Mt5,29-30). Có nhiều môi trường đòi hỏi mức độ cao hơn. Nhưng cũng có nhiều ơn riêng.
Lầm lẫn tiêu biểu của một người khởi đầu một mặt là sự tự phụ để cho mình rơi vào tình trạng nỗ lực khổ hạnh bằng sức mạnh cá nhân. Người ấy không hiểu về sự yếu đuối của chính mình. Người ấy không biết chịu đựng các yếu đuối của người khác. Và vì vậy người ấy trở nên tự phụ, bất kiên nhẫn, hay xét đoán tha nhân, để rồi khi cọng rơm của lòng nhiệt thành bị đốt hết sạch, người ấy rơi vào tình trạng thất vọng, buông xuôi muốn bỏ lại những khởi sự khó khăn trước đó. Hoặc nữa là người ấy nhìn thấy người khác không nản lòng trước mọi sự. Trái lại, họ chỉ quá “suy luận” mà lười biếng. Ở đây thiếu sự phân định đích thực, sự phân định giúp nhìn thấy rõ nét sự cần thiết của một đời sống khắc khổ và một nỗ lực lạc quan để chiến đấu với các đam mê trước khi đi vào sự yên nghỉ trong Nước Thiên Chúa. Ai không leo lên một ngọn núi thì không thấy được sự gian lao đích thực.
“Do đó, chúng ta hãy chiến đấu với tất cả khả năng mình để đạt được ơn phúc của sự phân định nhờ đức khiêm hạ, nó sẽ giúp chúng ta thoát khỏi cơn đau đớn do hai tình trạng thái quá gây ra.
Vì có một câu nói xưa rằng: nhiều thái quá sẽ đến. Nhịn đói quá và ăn quá nhiều sẽ đưa đến một ngỏ cụt. Thức khuya lâu dài sẽ đưa đến một kết cục tai hại như sự uể oải từ đó đẩy đan sĩ vào một giấc ngủ kinh niên. Từ bỏ mình thái quá thì làm cho yếu nhược và gây ra tình trạng tương tự như sự bất cẩn. Tôi đã gặp nhiều người không để cho mình bị cám dỗ bởi thói tham ăn, tuy nhiên, họ lại bị sự ăn chay thái quá làm cho suy sụp, rồi đi vào nết xấu mà họ vốn đã khắc phục. Thức khuya quá mức và khước từ nghỉ ngơi một cách ngu xuẩn đã khiến cho những người đó thiếp ngủ mà không thể chiến thắng. Do đó, như thánh Tông Đồ khẳng định: “chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ” (2Cr6,7), sự sống phải được thực hiện trong mức độ quân bình và trong sự định hướng giúp phân định, con đường phải được đi giữa hai loại thái cực để chúng ta không đi lệch đường về đích, không buông xuông và không bị thất bại trước sự bất cẩn nguy hại, thẩm thấu thành những thói xấu tham ăn và sự bê tha[1].