(tiếp...)

CHƯƠNG 13 THANH LUYỆN CÁC ĐAM MÊ

Đây là đan sĩ trẻ đang nỗ lực sống đời đan tu và muốn đạt tới sự khổ chế của cô tịch. Hãy báo cho người ấy biết trước về những cơn cám dỗ người ấy sẽ phải chịu và vị linh hướng phải làm một bảng liệt kê những thói xấu chính, để họ không bị bất cứ ảo tưởng nào về con người. Họ biết rằng bản chất của con người đang bị thương tổn. Quyền lực sự dữ không ngừng tấn công vào chỗ yếu và chúng tìm nhiều đồng minh để cùng tấn công. Bình an tâm hồn phải được mua bằng cái giá của một cuộc chiến trường kỳ.
Đường hướng của các tổ phụ sa mạc chủ yếu là thực hành. Sự hiểu biết của họ về con người phát xuất từ kinh nghiệm của họ về đời sống thiêng liêng. Vì lẽ này mà chúng ta phải học hỏi nhiều từ trường học của họ, dù chúng ta biết ít nhiều khái niệm về con người của Platon đang ngấm ngầm ảnh hưởng trong đó. Ở cấp độ thực hành chủ yếu lệ thuộc vào thân xác. Đam mê bất trị chính là một căn bệnh. Con người sa ngã không thể lấy lại sức mạnh và sự quân bình mà không cần sự thanh luyện các đam mê, năng lực của nó thường được dùng để phục vụ cho sự thiện hảo và tình yêu; hoặc nó dùng một cách thức khác, năng lực chủ yếu của một người nằm trong bản chất thật sự của họ, trở nên hợp nhất một cách quân bình mọi cấp độ của hữu thể trong tình yêu và sự thật.
Chúng ta không nên lầm lẫn quan niệm này với quan niệm tâm lý hiện đại bắt gặp sự nở rộ sung mãn nhân cách duy nhất như là một năng lực hiện thể và tiềm thể của con người. Đức tin là điểm khởi đầu đối với các vị tổ phụ và là sự hợp nhất đối với Thiên Chúa trong cùng đích của họ. Nếu như họ phải xem xét tầm ảnh hưởng của một đam mê, thì họ cần xem xét kỹ lưỡng sự ảnh hưởng của nó trong đời sống cầu nguyện trước hết. Theo Evagrius, con người đan sĩ được quảng diễn như sau:
“Đức tin được tăng sức mạnh nhờ lòng kính sợ Thiên Chúa và trong sự đáp trả mạnh mẽ nhờ đức khiết tịnh; được củng cố nhờ ơn bền đỗ và đức trông cậy, đức này sinh ra “apatheia” (chúng ta hãy nói lên sự an bình hay thanh sạch trong lòng), có lòng thương trẻ thơ; và tình yêu là cửa ngỏ đi vào tri thức (tri thức về mọi tạo vật), tri thức này được hoàn thiện nhờ nền thần học; kết thúc bằng ân phúc lớn lao”[1].
Từ được dịch ở đây là “continence” (enkrateia) là nhân đức khổ chế nền tảng của đời sống độc thân, là một hình thức đặc biệt; một cách phổ quát hơn nó đòi hỏi sự kiên trì chống lại mọi động lực của các đam mê. Điều này bao gồm cả một ý tưởng về sự quân bình bền bỉ trong việc sử dụng của cải trần gian mà không mê tưởng hay xao xuyến, hoàn toàn theo nhu cầu mà thôi. Bất cứ điều gì đi vào chúng ta trong sự bình an đều không có nguy cơ khơi dậy những đam mê trong tư tưởng, trong ký ức. Nhờ cách này mà những nền tảng của một bình an bền vững trong tâm hồn được thành hình.
Đối với các vị tổ phụ thì có 8 thói xấu cơ bản[1] như sau: tham ăn, hẹp hòi, ham lợi, giận dữ, buồn phiền[1], thất vọng, kiêu căng và tự phụ. Nhưng trong những lý do đi kèm thì chúng ta triển khai đường hướng của các vị tổ phụ bao gồm cả những yếu tố đạo đức được xem là trung lập hoặc tốt của các đam mê trong thắc mắc, trong ánh sáng của tâm lý hiện đại (yếu hay mạnh tâm lý).
Trong mỗi trường hợp, tâm lý quan sát thái độ cư xử của con người bình thường hay bất bình thường để hòa nhập nhân cách và sự sống với các yếu tố khác. Cần hiểu rõ nguồn gốc của các trạng thái thường nhạy cảm vì lẽ đối lập với sự tự nguyện. Chúng không nói lên một ý muốn xấu xa, các thói xấu tự ý tiếp nhận trong truyền thống các đòi hỏi cấp bách đạo đức và thiêng liêng dù cho thấy sự ấu trĩ và tâm lý hoặc là một vết thương sâu xa vừa cũ vừa mới.
Những vấn đề phụ không khởi đầu mà vẫn thấu đáo; chúng ta phải giới hạn lại ở đây đối với các lý do thực hành mang tính con người bằng ánh mắt để giúp đan sĩ hiểu được mình, ngày càng làm chủ được mình và có cái nhìn sâu sắc toàn diện trong cách nhìn nhận về tha nhân.
Hiểu được nguyên nhân phức tạp và đa dạng vốn có thể ảnh hưởng trên nhân cách, đan sĩ trẻ giữ mình khỏi xét đoán người khác, và do đó, họ tuân theo lệnh truyền của Tin Mừng (Mt7,10). Chúa Kitô thường dạy chúng ta đừng xét đoán tha nhân nhưng hãy yêu thương họ với tất cả sự chân thành. Ở giữa nhiều máy móc có tính bảo vệ có thể đánh thức bởi một sự xem xét tỉ mỉ đến nỗi một người có khả năng nhìn thấy mọi sự nơi người khác (đó thực sự là Dom X!) mà không nhìn thấy gì nơi mình cả (Mt7,3).


A. THÓI XẤU LIÊN QUAN
ĐẾN SỰ THÈM MUỐN

1. THAM LAM HAY PHÀM ĂN

Các Tư Tưởng[1]
Tư tưởng phàm ăn sẽ gợi ý cho đan sĩ một mục tiêu khổ chế: nó cho người ấy thấy cái dạ dày đói, nguy cơ của một căn bệnh trường kỳ, sự khó khăn của hoàn cảnh...vv. Nó làm cho người đó nhớ lại những người anh em của mình đã phải chịu những kết cục thảm khốc do chay tịnh thái quá...vv.
Các Hình Thức
- Háo hức chuẩn bị một bữa ăn trước giờ định.
- Thích thú trong việc nhồi nhét vào bất cứ thức ăn[1] gì.
- Tìm kiếm những thức ăn ngon.
Hệ Quả
- Sinh ra buồn phiền và ác cảm với kỷ luật đan tu.
- Khuấy động sự thèm muốn dục tính.
- Tham lam quá độ nên thiếu khó nghèo.
Phương Dược
- Ăn chay, tỉnh thức và cầu nguyện.
- Đôi khi cần những yếu tố dễ cảm thụ giúp cho việc chữa lành.

2. SỰ Ô UẾ

Tư Tưởng
- Tiết độ dục tính là vô nghĩa; nhiều ngôn từ và hình ảnh khêu gợi ra trong lòng và trong trí tưởng tượng...vv.
Hình Thức
- Nhiều mối quan hệ bất chính
- Thủ dâm
- Phạm tội trong tư tưởng và trong ước muốn
Phương Dược
Tham ăn và dâm ô là những thói xấu “tự nhiên”. Nhiều lúc chúng khuấy động bất cứ sự thèm khát nào trong ý muốn. Bởi sự thúc đẩy và xao động của tính xác thịt trong phần dục tính của nó. Chúng được kết nối lại: để chữa lành sự ô uế rồi chữa luôn cả thói háu ăn. Cả hai đều cần một đối tượng ngoại tại nếu chúng hoàn toàn được kiện toàn và chỉ có tác dụng nhờ một hành động thể lý. Do đó để kiềm chế được những kẻ thù này thì cần có một phương thuốc hai mặt: hữu hình và thiêng liêng. Hữu hình: hãm mình ép xác, tỉnh thức, ăn chay, làm việc, từ bỏ những cơn cám dỗ tự nhiên qua việc chạy trốn dịp tội và nhờ sự cô tịch[1].
Thiêng liêng: thỏa mãn lòng mình bằng những tư tưởng tốt nhờ chuyên chăm suy niệm Kinh Thánh...vv.; nghĩ về những hình ảnh xứng hợp; cần cảnh giác một cách cẩn trọng ngăn chặn liền những hình ảnh hoặc những khêu gợi về dâm dục mà chúng[1] đang bày ra; ở lại trong tình yêu riêng tư và sống động đối với Thiên Chúa, Chúa chúng ta và Đức Trinh Nữ rất thánh.
Có thể có một yếu tố dễ cảm trong những cơn cám dỗ này, chúng vẽ ra nơi một nhu cầu hoặc một sự thất vọng trong tình yêu. Đôi khi sự điều khiển sinh lý theo hệ thần kinh hay những phản ánh tâm lý hay những trở ngại có thể đi vào bức tranh, khi sự phát triển tình dục của một người có vấn đề. Trong trường hợp này, thì phải nhờ sự trưởng thành nhân bản của cá nhân và sự hợp nhất của hữu thể họ trong sự dung hòa khả dĩ mang lại hiệu năng. Điều này đòi hỏi phải có thời gian, lòng kiên nhẫn và khiêm tốn. Kết quả của đức ái vẹn toàn, sự quảng diễn một tình yêu hợp nhất toàn bộ con người, chỉ có thể hoàn tất cách tiệm tiến và rất chậm.

3. THAM LAM

Tư Tưởng
Nó gợi lên một tuổi tác già cả kéo dài, rồi những căn bệnh có thể đến, vị đắng của nghèo khó, xấu hổ khi nhận từ người khác điều mà mình cần...
Hình Thức
- Từ bỏ thế gian, nhưng lại sợ phải từ bỏ của cải.
- Lấy lại, với sự háo hức lớn hơn, những gì đã từ bỏ.
- Thèm muốn hoặc thu vén những gì mình chẳng có gì trước đây.
- Đôi khi sự thèm muốn chồng chất thành tài sản (điều này cũng có thể áp dụng cho của cải tri thức) là một cách thức của sự cố gắng làm hài lòng, nhờ vào sự thay thế, thiếu đi một khả năng đảm bảo cá nhân hay cảm giác mình không được yêu. Trong trường hợp này, sự chữa lành rất khó, là yêu sách mà một người cần phải:
a. Chấp nhận sống khó nghèo triệt để.
b. Chân thành khi mở lòng ra với tha nhân và với Thiên Chúa. Sau đó có thể xảy ra trong quà tặng của tình yêu khi họ đến với tha nhân.
Phương Dược
- Hãy bằng lòng với những gì là cần thiết cho mỗi ngày sống, loại trừ những gì không cần thiết, phó thác mọi sự trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Từ bỏ mọi của cải không tích trữ.
- Diệt trừ thói tham lam bằng lòng bác ái.
Đức bác ái không thể tồn tại song song với sự giàu sang do thu tích cho riêng mình. Chúng ta hãy sẵn sàng với tất cả lòng mình để phân phát tất cả những gì chúng ta có trong lều, nhu cầu sử dụng cá nhân chúng ta, tuy nhiên đây có thể là không quan trọng giữa anh em chúng ta cho bằng: thời gian, tư tưởng, quà tặng cũng như mọi sự.

4. BUỒN PHIỀN

Tư Tưởng
Những ký ức về thú vui đã qua sẽ đẩy tâm hồn vào sự buồn phiền, nó khơi lại nhiều thú vui, không bao lâu và có thể không bao giờ trở lại được, do đời sống hiện tại của người ấy.
Hình Thức
- Kéo theo thèm muốn trong bất lực.
- Một sự mất mát thật sự.
- Kiềm chế sự giận dữ.

Phương Dược
- Không quyến luyến các thú vui thế gian, thanh thoát đối với của cải thế gian bởi vì sự buồn phiền phát sinh từ sự vô hiệu hóa một ân ban hiện tại hoặc quá khứ.
- Cảnh giác với thói mơ mộng hão huyền, để sống giây phút hiện tại, trong bốn bức tường của lều.

SỰ XAO XUYẾN

Cuối cùng có thể suy ra, tham lam và buồn phiền là hai chị em ruột, cả hai đều là căn bệnh của tâm hồn do dục vọng. Tuy nhiên, Casian nói tới một hình thức khác của sự buồn phiền “làm gia tăng xao xuyến và thất vọng một cách vô cớ”. Không mấy khó khăn trong việc nhận thức mà thế hệ chúng ta gọi là xao xuyến, cái mà tâm lý chiều sâu đã đồng hóa nó như là trung tâm của tất cả chứng loạn thần kinh chức năng. Nhiều trạng thái căn bản thuộc nền văn minh hiện đại mặc dù có một số người không bị lây nhiễm ở một mức độ nào đó (dù không phải là cấp độ dữ dội khiến kích thích thần kinh). Đối với tôi dường như có một loại bối rối của cô tịch ít là một sự bối rối khác thường đối với cô tịch, như một người đối mặt với sự hư vô trống rỗng của mình và sự thinh lặng hữu thể trong một cách thức trần trụi liên lỉ. “Sự trống rỗng” thiêng liêng thường có một yếu tố này, giống như sự tuyệt vọng (acedia).

Hình thức tâm lý của nó như sau:
Sự xao xuyến là một trạng thái có ít nhiều dai dẳng và nghiêm trọng của sức ép tâm lý và sức lực hạn hẹp (một người luôn đồng hành với người khác), tình trạng này sẽ kéo dài do một bất an liên miên tới một sự sợ hãi thẩm thấu để rồi nỗi đau buồn có thể bóp nghẹt và làm tê liệt khi một người khám phá hoặc tin vào chính mình đều ở lại trong tình trạng mất hết mục đích sống, dù ít nhiều chưa có nguy cơ bị đe dọa tới sự an toàn và cả mạng sống[1] người ấy.

Trong những trường hợp cuối cùng:
Họ có thể cảm thấy bị thúc bách nổi loạn hoặc phạm một tội vô phương cứu chữa. Trong trường hợp người ấy dường như bị bắt lại trong một “ước muốn chết” thì một sự cưỡng bách mù quáng và thù hận sẽ là một hành động của sự coi thường và phản kháng trực diện đối với vận mệnh và đối với Đấng đang điều khiển vận mệnh ấy. Nhưng trong thực tế sự xao xuyến và sức ép này cũng xuất phát từ cuộc xung đột nội tại và hành động tự vệ toàn bộ hữu thể chống lại sự đe dọa của sự chết do ngột ngạt; nó đòi hỏi một cuộc chiến và một nỗ lực khả dĩ thoát khổ đau và vận mệnh đồng thời có thể dẫn dắt người ấy chiến thắng và tin rằng mình cũng là người chiến thắng[1].
Thường thì một giải pháp “khách quan” không tồn tại được; người ấy phải đón nhận sự nghèo khó trong tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, trong một hành động từ bỏ đối với Chúa, Đấng chịu đóng đinh, Đấng duy nhất có khả năng thay đổi trong tình yêu. Đây là sự xao xuyến của mọi người, bởi vì ở một góc độ nào đó, mỗi người là chủ những giới hạn từ trong bản chất được sáng tạo nên của mình.


CHƯƠNG 14 THANH LUYỆN CÁC ĐAM MÊ II

B. THÓI XẤU LIÊN QUAN
ĐẾN NÓNG GIẬN

5. GIẬN DỮ

Tư Tưởng
Ký ức những người đã làm cho chúng ta đau khổ, sai trái mà họ đã làm cho chúng ta; sự ức chế đối với họ; lên kế hoạch trả thù.
Hình Thức
- Đột nhiên ngọn lửa giận hờn nổi lên, một sự thôi thúc chống lại những người đã làm hại chúng ta hoặc những người đã nhìn thấy chúng ta làm chuyện sai trái.
- Ánh sáng của ngọn lửa đang âm ỉ ở trong; hoặc chúng cũng phát lộ ra ngoài với những lời lẽ và hành động (tính hướng nội hoặc hướng ngoại).
- Kéo dài quá lâu hoặc không dậy nổi và gục ngã trở lại (mang tính phụ hoặc chính).
- Khi nó xảy ra và chuyển thành tình trạng bực bội thì nó gây ra nhiều vấn đề ở thể lý, những cơn ác mộng (nhiều hình ảnh biểu hiện của hình ảnh báo thù...cơn giận dữ cứ thế thấm nhập vào vô thức).

Sự Công Kích

Ở đây chúng ta có thể lưu ý vài điểm công kích của cơn giận dữ, nó không ngoài một sự bộc lộ cảm tính. Có một sự phân biệt thiết yếu giữa sự công kích lành mạnh và sự công kích không lành mạnh. Sự công kích không lành mạnh khởi đầu làm cho nó thất bại trong một con đường thù hận và không chút xây dựng đối với người khác hoặc đối với chính nó (thông đồng). Điều này chất chứa lòng căm thù đối với đối tượng của nó. Trái lại, sự công kính chíng đáng và lành mạnh có thể giúp một người đối diện với nhiều khó khăn và nguy hiểm của sự hiện hữu với lòng quảng đại hoặc can đảm: để dự phóng làm gì, không chắc thành công; khắc chế được tính xác thịt và mục đích để phục vụ lý tưởng cao thượng kiên trì cho tới cùng. Nếu không có sự thúc đẩy quan trọng này thì không ai có thể đáp trả được một cách đúng đắn ơn gọi của mình. Các đan sĩ tiên khởi đã hiểu được điều này: “lý trí hoạt động theo bản năng khi những điều kiện sau được thực tại hóa tính ham muốn nhục dục thì đòi hỏi phải tiết dục, tính nóng nảy chiến đấu cho nó; cuối cùng lý trí gắn liền với việc chiêm ngưỡng mọi tạo vật” (Evagrius, Praktikos,86, p.37).
Nếu như sự ham muốn nhục dục đòi hỏi và làm cho người ấy nản lòng, nếu nhu cầu đón nhận sự quý trọng và tình yêu không được thỏa mãn, nếu như môi trường xung quanh làm cho con người quá đau khổ thì sự công kích có thể tìm được lối thoát cho thái độ thù hận, hoặc chiếm giữ hình thức theo hướng cản trở, chán nản, làm tê liệt niềm hy vọng, tự quy hoặc trở lại với sự ức chế, mâu thuẫn hoặc chủ nghĩa hoàn thiện trong ước muốn.
Sự mất mát mang tính trầm trọng nhất là tính mẫu tử do người con tiếp nhận những cưỡng chế mang tính xã hội và đạo đức. Chính những khó khăn này nhằm để cứu chữa về sau này và nhờ vào nguồn mạch của nhiều thái độ nổi loạn cũng như tranh chấp,
Một ước muốn thái quá đối với quyền lực và thiết yếu trong việc đánh lừa chính mình, áp đặt trên người khác đôi khi ở bất cứ giá nào, với những người độc thân là một sự diễn tả sự thất bại tình dục.
Sự gây hấn thù nghịch có thể bộc lộ ra những hành động hay lời nói (những sự nhục mạ, nói xấu, vu khống), hay cách kín đáo, ví dụ qua sự châm biếm, được người Pháp xem (như khác với sự mỉa mai, chế nhạo, giễu cợt, vốn mang tính xúc phạm hơn và bông đùa), ít nhất là khi nó phát sinh trên người ta và không phải là ý tưởng, thường là do những tà tâm hoặc ác ý đối với người khác. Sự hài hước là một hình thức hết sức tế nhị của sự châm biếm. Khi người ta biết vận dụng một cách tốt lành trong việc điều khiển chính mình thì nó có thể trở thành một hình thức tinh tế trong tình bác ái huynh đệ, một thứ tình bác ái không làm cho người khác đau khổ nhưng đúng hơn là để chữa lành bằng việc giúp họ nắm giữ những lời nhắc nhở nhẹ nhàng trong thái độ hoặc ý kiến của họ xúc phạm đến người khác.
Có nhiều hình thức ẩn kín của sự thù hận vốn tồn tại và kéo dài âm ỉ, tập trung hoàn toàn vào một con người đặc biệt và hệ quả là có nhiều ác ý và làm tổn thương đối với tình yêu đồng loại. Đây là sự ghen tị, giận hờn và thù ghét.
Sự giận hờn và ghen tị xuất phát từ một vết thương của sự xúc phạm mà ai đó đã làm đối với chúng ta, lòng bác ái của chúng ta không đủ lớn để tha thứ, trong khi không nhất thiết phải thù ghét. Thù ghét, trái lại là một khuynh hướng gây hấn chứ không chỉ là cảm giác, ngoài ra do đã đồng tình, đã muốn và đã tự nguyện chấp nhận, như vậy có thể đang phạm tội sát nhân trong lòng rồi như thánh Gioan đã quả quyết với chúng ta (1Ga3,15).
Cũng có một thứ nhiệt tâm xấu đôi khi có họ hàng với sự ghen tị. Một người có lòng ghen tị thì không biết chia sẻ gì cả. Những nhu cầu của người có lòng ghen tị thường trái mùa và cố chấp, nói chung họ khơi dậy một sự chống đối những gì họ gặp phải, bởi vậy càng cho thấy họ ít được thôi thúc bởi lòng mến thay vào đó là sự ham muốn hỗn tạp chất chứa oán hờn cố hữu để thi hành bổn phận cách bắt buộc mà chẳng có chút lòng mến. Tóm lại, người có lòng ghen tị thì chỉ biết đặt sự công bằng lên trên tình thương.

Phương Dược

- Trước hết là quảng đại với chính mình rồi hãy quảng đại với người khác. Nếu một người nào đó tàn bạo với chính mình thì một cách minh nhiên họ cũng tàn bạo với người khác.
- Lòng thương. Thay vì trừng phạt ai đó, thì hãy cố gắng hiểu họ bằng chiều sâu con tim.
- “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn” (Ep4,26). Hãy làm hòa với người anh em cả trong lẫn ngoài trước khi đi ngủ, mặt khác có nguy cơ cơn giận đó sẽ âm ỉ trong tiềm thức suốt đêm. Lời cầu nguyện của ngày hôm sau và sự bình an của tâm hồn sẽ bị suy giảm và bị vẩn đục[1].
- Khi anh giận người anh em, nhất là nếu người anh em giận anh: “thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt5,23-24). Bằng không giờ cầu nguyện của bạn sẽ bị quấy rầy. Hãy cầu nguyện cho người anh em và yêu thương người anh em ấy (Mt5,44). Hãy làm những gì có thể làm được cho người ấy (Rm12,18-21). Nghĩa vụ đầu tiên của bác ái là để chữa lành sự gây hấn của người ấy đối với bạn.
“Khi dưới một vài sự kích động hoặc ở một nơi dễ cáu của tâm hồn chúng ta bị khuấy lên thì chính giây phút đó ma quỷ sẽ gợi ý cho chúng ta nhiều sự thuận lợi của cô tịch hòng ngăn cản chúng ta chấm dứt nguyên do sự buồn phiền và thoát phiền não. Chính khi sự ham muốn thế tục bùng cháy trong chúng ta thì nó khiến chúng ta một lần nữa phải tìm kiếm sự đồng hành thân thiện của những con người, đã gọi chúng ta một cách nhẫn tâm và bất lịch sự để đưa chúng ta vào trong sự tiếp xúc với những đối tượng của sự thèm muốn nơi chúng ta. Không giãi bày những nỗi lòng riêng đang ầm ỉ; trái lại, cứ theo tiến trình hoàn toàn trái ngược.
Hãy cẩn trọng đừng để những tư tưởng giận hờn đi vào hoặc trao mình cho chúng, bằng cuộc chiến nội tâm với những người đã làm phật ý bạn. Vả lại không chỉ có những tư tưởng gian dối mà cả hình ảnh thú vui thế gian cũng rất sinh động. Một mặt làm cho tâm hồn ra tối tăm, mặt khác mời mọc đam mê bừng cháy. Cả hai làm cho lòng bạn ra dơ bẩn và bởi vậy bạn không thể dâng cho Thiên Chúa lời cầu nguyện thanh khiết được. Vì trở thành nạn nhân của sự ngã lòng nên bạn sẽ có nguy cơ nguội lạnh. (Evagrius, Praktikos,22 và 23,p.22).
- Hãy sử dụng năng lực công kích một cách tích cực trong cuộc chiến chống lại các đam mê và cuộc chiến đấu trong cầu nguyện. Đừng nuông chiều cả thân xác lẫn tâm hồn.

6. NGUỘI LẠNH

Nguội lạnh là một từ Hy Lạp khó có thể chuyển tải hết sang Tiếng Anh: chán chường, mệt mỏi, vô dụng, ghê tởm, thất vọng,…vv. Đó chẳng qua chỉ là một vài thành tố của nó mà thôi. Là một trạng thái của tâm hồn sui generis và có liên quan tới sự cô tịch. Người đan sĩ sẽ không nhìn thấy bất cứ ý nghĩa gì trong đời sống của mình nữa. Đó là một cám dỗ nặng nề nhất trong tất cả. Nó bủa vây tất cả con người đan sĩ và đặc biệt nó làm cho lý trí ra tối tăm. Đó là một căn bệnh nan giải của linh hồn. Đây là một phác họa cổ điển:
“Con quỷ “nguội lạnh” cũng được gọi là con quỷ ban trưa, là một loại gây nhức nhối nhất trong tất cả. Nó thúc dục một cuộc chiến trên người đan sĩ vào khoảng giờ thứ 4 và bao vây linh hồn cho tới giờ thứ 8 (khoảng từ 10g sáng tới 2g chiều). Trước tiên nó làm cho như thể mặt trời di chuyển quá lâu và một ngày kéo dài tới 50 giờ. Rồi nó làm cho người đan sĩ hay nhìn ra cửa sổ, đi ra khỏi căn phòng, siêng năng nhìn lên mặt trời để xem còn bao lâu nữa thì đến giờ thứ 9, nhìn đây đó xem có ai đến thăm mình không. Thế rồi nó truyền dần vào lòng người đan sĩ một sự thù ghét nơi ở, ghét chính đời sống của mình, ghét làm việc chân tay. Nó làm cho người đan sĩ nhớ lại tình bác ái đã đánh mất giữa anh em đồng loại, rằng không ai động viên cả. Nếu có ai đó ở giai đoạn này làm chướng tai gai mắt cách này, cách khác thì con quỷ này thường đưa người ấy đi xa hơn vào sự thù ghét. Con quỷ này dẫn người ấy đi vào sự thèm khát một nơi ở khác, để có thể dễ dàng tìm kiếm những nhu cầu cần thiết hơn cho đời sống, dễ làm việc hơn và có thể thực hiện được một thành công thực sự cho riêng mình. Sau đó, nó tiếp tục gợi ý rằng đây không phải là nơi để đặt cơ sở cho việc làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa phải được thờ phượng mọi nơi. Nó nối kết những suy nghĩ hiện tại với những kỷ niệm về những con người đáng kính và những hình thức sống trước đây. Nó vẽ ra một đời sống quá sức con người với thời khắc dài dằng dặc và nó đem đến trước mắt tâm trí sự kéo lê của cuộc chiến khổ chế và như đã nói, nó dùng đủ mọi cách để xui khiến người đan sĩ rời bỏ phòng mình đồng thời rút lui khỏi cuộc chiến. Một khi người đan sĩ chiến đấu trong cuộc chiến này và thu hoạch được hoa trái bình an sâu xa và niềm vui bất diệt thì không một con quỷ nào có thể lại gần những bước chân của họ. (Evagrius, Praktikos,12,pp.18-19).

Phương Dược

- Có thể nói: “khi nhận ra sự nguội lạnh (acedia) cũng là lúc đạt được bình an” (B.ward (dịch)), Giáo Huấn Của Các Vị Linh Phụ Sa Mạc (The Sayings of the Desert Father), 149 (London: Mowbray,1975), P.158). Tuy nhiên, có một yếu tố của sự nguội lạnh vốn hay bị che khuất bởi tầm nhìn. Vị linh phụ hay một anh em có khả năng khai thông ánh sáng cho người đang chịu đau khổ.
- Nước mắt sám hối và niềm hy vọng được dưỡng nuôi bằng Lời Thiên Chúa:
“Khi chúng ta gặp con quỷ nguội lạnh thì hãy dùng nước mắt để tách tâm hồn mình thành hai. Một phần là quảng đại. Phần khác là đón nhận sự quảng đại. Bởi vậy chúng ta sẽ gieo hạt giống của niềm hy vọng bền vững nơi chính chúng ta trong khi cùng với thánh vương David, chúng ta hát lớn: “hồn tôi hỡi, cớ sao phiền muộn? Xót xa phận mình mãi làm chi? Hãy cậy trông Thiên Chúa. Tôi còn tán tụng Người, Người là Đấng cứu độ, là ánh sáng chỉ đường, là Thiên Chúa của tôi” (Tv41,6). (Evagrius, Praktikos, 27, p.23)[1].
- “Sự nguội lạnh được thẩm định bằng đức kiên nhẫn và nước mắt sám hối”
- Sự kiên định trong phòng: “Lúc cám dỗ không phải là lúc rời bỏ căn phòng, tuy nhiên đó cũng là những cái cớ khéo léo mà người ta có thể tìm thấy. Hãy can đảm vứt bỏ tất cả những gì mà chú quỷ đã gây ra trên bạn, nhưng trên hết hãy đương đầu với con quỷ nguội lạnh, chính nó là đầu mối gây đau thương nhất và cũng vì đó mà nó sẽ tác động lớn nhất trên sự thanh luyện của tâm hồn. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường chạy trốn và không muốn đối đầu một cách vụng về, hèn nhát và sợ hãi với các loại thần dữ”. (Evagrius, Praktikos, 28, p.24).
- Hãy suy nghĩ về sự chết sắp xảy ra:
“Vị thầy thánh thiện và khổ hạnh nhất của chúng ta đã từng khẳng định rằng đan sĩ luôn sống như là ngày mai sẽ chết đi, tương tự đan sĩ cũng hãy coi như thân xác mình như thể còn sống nhiều năm và sẽ còn tiếp tục sống. Vì ngài đã nói rằng nhờ tình trạng thứ nhất mà người ấy có thể cắt đứt được mọi tư tưởng đến từ sự nguội lạnh và do đó sẽ sốt sắng nhiệt thành hơn trong những thực hành đời sống đan tu của mình, nhờ ý tưởng thứ hai người ấy sẽ duy trì được sức khỏe thân xác mình và bảo vệ được sự nguyên vẹn của đức khiết tịnh” (Evagrius,praktikos,29,p.24).
“Quả thật, nếu mỗi ngày sống chúng ta cứ sống như là chúng ta sắp đến giờ chết thì chúng ta sẽ không dám phạm tội...mỗi ngày khi thức giấc chúng ta nghĩ rằng tối nay chúng ta sẽ không còn sống nữa và cứ như thế trước khi đi ngủ chúng ta nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ không thức giấc nữa” (Thánh Athanasio, Đời Sống Thánh Antôn 19,p.36)[1].
- Hãy tiếp diễn một cách thư thái nhịp điệu khỏe mạnh của cầu nguyện và lao động để tạo thành kỷ luật đan tu. Trong thử thách này chính nhờ sự nâng đỡ lớn lao mà bạn có thể giữ được sự quân bình. Đừng bao giờ ngưng lại.
‘Khi thánh Viện Phụ Antôn sống trong sa mạc, ngài đã bị thói lười biếng bủa vây và bị nhiều tư tưởng tội lỗi tấn công. Ngài thưa với Chúa: “Lạy Chúa! Con muốn được cứu độ nhưng những tư tưởng này không để con yên; con phải làm gì đây? Làm sao con mới được cứu độ?” Chỉ một lát sau, khi Antôn chỗi dậy đi ra ngoài, ngài đã nhìn thấy một người đàn ông giống mình đang ngồi làm việc, rồi lại ngưng việc để cầu nguyện, rồi lại ngồi xuống và đan một dây thừng, rồi lại ngưng việc để cầu nguyện. Đó chính là một thiên thần của Thiên Chúa được sai đến để chỉ dẫn và an ủi ngài. Ngài nghe thiên thần bảo rằng: “hãy làm như vậy và ngươi sẽ được cứu độ”. Khi nghe những lời đó, Antôn tràn ngập niềm vui và được thêm can đảm. Ngài đã làm như vậy và ngài đã được cứu độ’ (Ward, Sayings, p.1).
Sự bình an đó đến ngay sau cuộc chiến đấu, sau sự khô khan (acedia) là hesychia. Đối với các đan sĩ xưa, nếu ai đó chỉ muốn tin tưởng vào Thiên Chúa, nương tựa vào Người, kết hợp với Người, duy trì sự tín thác nơi Người, sống đơn điệu, âm thầm lặng lẽ, (Lamentationcaical 3,27-28), chia sẻ đau khổ với Chúa Kitô, thì kết quả không còn nghi ngờ gì nữa là họ sẽ được chia sẻ niềm vui của Người và được đi vào Vương Quốc của Người.

“Đức tin của con đã cứu con. Hãy đi bình an!”