CHƯƠNG 18

PHÂN ĐỊNH THẦN KHÍ II


TÂM LÝ HIỆN ĐẠI
Ân sủng xây dựng trên tự nhiên. Có sự liên tục giữa phát triển tâm lý con người và sự sống ân sủng. Dầu vậy vẫn có sự phân biệt, bởi lẽ hoạt động Thánh Thần sẽ nâng cao và sẽ biến đổi khuynh hướng và cảm xúc con người một cách sâu xa. Bây giờ chúng ta hãy cố gắng đến với một cái nhìn tổng thể của thực tại con người, bằng cách sử dụng dữ liệu căn bản nhất của tâm lý tự nhiên và siêu nhiên. Điều này sẽ giúp chúng ta sắp xếp mọi sự vào trật tự đúng đắn hơn và hiểu được công việc biến đổi kỳ diệu đang diễn ra liên lỉ trong chúng ta nếu chúng ta trở thành môn đệ Chúa Kitô thực sự và trở thành những đan sĩ.


CON NGƯỜI

Tâm lý hiện đại dựa vào khả năng nhận định sắc sảo và phân tích sâu xa, khả dĩ có thể hiểu được nhiều khía cạnh trong ứng xử cá nhân của con người. Tuy nhiên, nó không diễn tả được một tư tưởng độc lập của con người toàn diện mà chỉ một vài tản mạn. Phần lớn nó được xác định nhờ những bù đắp của triết lý, sự đảm nhận những lập trường vượt xa những hiểu biết được hậu thuẫn của tâm lý.
Mục tiêu của chúng ta ở đây là thực hành tình trạng cần quan tâm của chúng ta, chính là đức tin của chúng ta. Chúng ta không chấp nhận quan niệm định mệnh và bi quan của nhà tâm lý học Freud: Một con người hơn là một “tâm thần” con người, dù nam hay nữ cũng là một tinh thần và có thể ảnh hưởng trên tâm thần và những điều kiện khác bằng sự đón nhận hay từ chối chúng, hay ít nhiều kìm hãm chúng bằng cách dùng sự tự do của con người để tìm kiếm những giá trị thiêng liêng.
Chúng ta cũng không chấp nhận quan niệm chủ quan và lạc quan của Rogers, Maslow và một vài triết gia hiện sinh để rồi đặt mục tiêu của con người là phát triển khả năng riêng, hoàn thiện hóa mọi tiềm năng. Điều này phủ lấy con người và hạn chế tính siêu việt, có thể nói, khả năng vượt xa hơn chính chúng để đạt tới những giá trị khách quan trên cả chúng. Như hạnh phúc, khả năng tự nó không phải là cùng đích để rồi một con người cứ ảo tưởng như một cái gì tuyệt đối. Đúng hơn đó là kết quả một chiều, một loại thiện hảo, sự vực dậy từ thực hành những giá trị cao thượng hơn (tình yêu Thiên Chúa, phục vụ người khác, công bình bác ái…) những gì một người đã hiến dâng. Đón nhận mẫu gương của một người như là duy nhất được kiện toàn qua sự đáp trả của tất cả khát vọng là trở về với ý tưởng “quý tộc tàn bạo” thế kỷ XVIII.
Nhiều người hơn là một người. Họ được kiện toàn nhờ tự làm cho mình trỗi vượt. Nhưng con người là một tạo vật được đánh dấu bởi sự rối loạn của tội. Nó đòi hỏi một cuộc chiến trường kỳ và kiên định để lấy lại trật tự do dục vọng hỗn loạn, và làm nên sự thống nhất trong việc theo đuổi một lý tưởng cao thượng được nhận thức bởi lý trí. Đối với chúng, lý tưởng này thuộc về Tin Mừng được nhìn nhận trong ánh sáng đức tin. Lý tưởng tình yêu và sự thật trong Chúa Kitô trong hy vọng và sự sống đời đời nơi Thiên Chúa.

CÁC CẤP ĐỘ BIẾN ĐỔI
CỦA ĐỜI SỐNG

Dù phức tạp nhưng muốn hợp nhất thực tại con người thì có nhiều cấp độ khác nhau trong đời sống. Những cấp độ này xuất hiện lần lượt trong thời gian. Khi một cấp độ cao xuất hiện thì một cấp độ thấp hơn không biến mất; nó đi vào một cấp độ cao được biến đổi nhờ tiếp xúc với nó, trong khi vẫn giữ được bản chất riêng của nó. Cũng vậy các đam mê và động cơ của chúng ta có thể có nguồn gốc nơi một hay nhiều trong các cấp độ này hay trong tất cả chúng ngay lúc này và thậm chí có thể trong sự mâu thuẫn giữa chúng. Để chúng ta có thể hiểu được mình, thật cần thiết để có được một vài ý tưởng trong cấu trúc hữu thể chúng ta.
1. Cấp Độ Sinh Lý Và Bản Năng
Chúng ta hãy nói về tâm sinh lý. Đó là vấn đề về những tình trạng sinh lý của một cơ thể sống, kết nối với hoạt động nền tảng nhất của tâm lý được kích thích bởi một phản ứng về sự thiếu thốn hay như một sự bày tỏ nhu cầu của hữu thể, ở cấp độ này chúng ta khó có thể nói về một đời sống cá nhân dù cơ thể sống là một cá thể.


2. Cấp Độ Tâm Lý Xã Hội
Đây là phạm vi kinh nghiệm riêng hoạt động trên thế gian, trên mọi sự và trên mọi người. Cái tôi tìm kiếm một cấu trúc bằng việc khẳng định mình theo những khuynh hướng tự nhiên và bằng việc trở về với sự khuyến khích thực tại cụ thể của nó bây giờ và ở đây. Trong cấp độ này, vũ trụ ở trong cả một đời sống được khuyếch trương rất nhiều nhưng tác động của cái tôi chủ yếu mang tính vị kỷ: nó muốn mọi sự qui về nó. Cá sinh tự nhận thức về mình và có một đời sống cá nhân mới.
Nét đặc trưng của cấp độ này là sự phân định ngay ở cấp độ ý thức về đối tượng được diễn tả đối với cái tôi. Qua một tiến trình lượng định trực tiếp, ngay tức khắc và bằng trực giác, đối tượng được hiểu như sự thèm khát hay không, đối với tôi, ngay lúc này và tại đây, bởi nó là nguồn mạch của thú vui tức thời, về phương diện nó có thể làm thoả mãn một nhu cầu hay hiện thực hóa một tiềm năng. Cảm nhận bằng cảm xúc một cách tự nguyện theo tiến trình lượng định này, ngay cả sự thỏa mãn. Cảm nhận của hấp lực đối với một đối tượng vừa ý; hay sự bất thỏa (ghen ghét, thù địch, sợ hãi..): một khuynh hướng cảm giác của sự ghê tởm đối với đối tượng không vừa ý. Cảm xúc là một sự thúc đẩy cụ thể hướng về hành động cần thiết để lại gần hoặc trốn tránh một đối tượng. Lặp lại một cảm xúc và sự thoả mãn của nó sẽ phát sinh một trạng thái cảm xúc: một khuynh hướng thường xuyên hướng về đối tượng và hoạt động.
Nơi các sinh vật, chúng ta tìm thấy một định hướng tương tự, một bản năng được khơi lên bằng một trạng thái sinh lý đưa đến kết quả là sẽ có một sự đáp trả rập khuôn. Những cảm xúc đầu tiên nơi con người cũng thuộc về bản chất này, nhưng chúng có thể thuộc về một sự đáp trả cao cả hơn.
3. Cấp Độ Đời Sống Thiêng Liêng
a. Phạm Vi Đời Sống Riêng Của Con Người:
Tinh thần con người có quyền năng nhờ sự trừu xuất để đi xa hơn tri thức của dữ liệu giác quan nhận thức tức thời đối với sự hiểu biết bản chất của mọi sự và những nguyên tắc chung của thế giới. Nó cũng có thể đi vào thế giới thiêng liêng của những thực tại siêu hình, vừa không riêng biệt vừa không ở trong không gian vừa không ở trong thời gian. Nó có thể xây dựng và hiểu được ngôn ngữ biểu tượng. Có thể tự mở cửa cho những giá trị thiêng liêng vượt trên vật chất và đời sống tạm bợ. Không được xác định bởi kích thích cảm giác và có thể chọn lựa những giá trị hằng khao khát theo đuổi. Cái tôi có thể vượt trên chính mình trong khát vọng hướng về những giá trị và lý tưởng mà nó dâng hiến. Đây là lãnh vực tự do của con người, là lãnh vực đời sống con người mà các sinh vật không thể có được.
Nét đặc trưng của cấp độ đời sống này là đối tượng của sự phân định lý trí phản tỉnh, là một tiến trình toàn diện (gồm cả cảm xúc) của phân định cảm giác, không chỉ dưới góc độ dễ chịu hay khó chịu mà còn là mức độ tốt xấu đối với tôi ngay lúc này. Sự phân định này không được đặt nền tảng trên những cảm xúc trong cấp độ cảm giác (trong khi đó nó có thể tham dự vào hình thức phân định và trên hết trong sự kiên định của nó) nhưng dựa trên sự phản tỉnh thuyết phục của người ấy vượt trên những giới hạn kinh nghiệm riêng, ảnh hưởng bởi sự kích thích cảm giác ở đây và lúc này đồng thời người ấy rộng mở cho những giá trị thiêng liêng và đời đời. Nó có thể phù hợp hoặc mâu thuẫn với phân định cảm tính (tất cả là dễ chịu và không tốt cho tôi).
Do vậy có thể xảy ra cuộc chiến nội tâm giữa một khuynh hướng xúc cảm hướng về điều nó thèm khát và một khuynh hướng ý chí hướng về điều được phân định bằng một hành động tự do của ý chí như là một điều thiện hảo và mang lại lợi ích (ví dụ: chọn lựa sống độc thân, vâng phục…). Khát vọng mang tính lý trí này chỉ có thể theo sau những cảm xúc con người, có thể nói, một khuynh hướng cảm nhận và tự phát theo điều đã được xét là tốt cho tôi. Cảm xúc tự phát này có những ảnh hưởng trên những cảm xúc ở cấp độ giác quan khả dĩ ít nhiều chuyển động và quy hướng về cùng hướng (không phải lúc nào cũng xảy ra; trong mọi lúc cần có thời gian, đôi lúc cần có nhiều thời gian trước khi xảy ra).
Việc thực hành sự phân định lý trí dẫn tới một trạng thái mang tính lý trí: thường hay sử dụng phán đoán lý trí. Những trạng thái này khơi lên những cảm xúc mạnh nhưng chúng không có nền tảng.

b. Pham Vi Đời Sống Thiêng Liêng,
Đời Sống Thần Khí Chúa Kitô:
Người kitô hữu nhờ kết hợp với Chúa Kitô trong phép rửa và ơn công chính hóa, họ tham dự vào đời sống Chúa Kitô. Chúng ta nhận vào mình một nguyên lý sự sống mới, đó là Thánh Thần, những khả năng mới để biết bằng cái biết của Thiên Chúa và yêu mến bằng tình yêu của Thiên Chúa. Ánh sáng đức tin mở rộng đi tới huyền nhiệm của con người và Thiên Chúa. Rộng mở sự sống này vừa cưu mang vừa vượt trên sự sống con người tự nhiên; ở đây chúng ta bắt gặp khát vọng sâu xa nhất của chúng ta được kiện toàn mặc dù nó ẩn dấu và không thể nhận ra được bằng những khả năng tự nhiên.
Vừa có sự liên tục vừa có sự ngắt quãng triệt để. Trong thực tại sâu xa nhất của khuôn mặt con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nhờ ngày càng kết hợp sâu xa với Chúa Kitô, được Thần Khí thực hiện trong nội tâm (2Cr3,18). Phù hợp với mục tiêu này, cái tôi chiến đấu cho sự biết mình trong tất cả sự giàu sang của riêng nó. Tin Mừng đòi chúng ta hãy để mất mạng sống mình hầu đòi lại được, để giờ đây “không còn phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi”.

CẤP ĐỘ BIẾN ĐỔI ĐỜI SỐNG


Cấp Độ Đời Sống
Nhu Cầu
Thúc Đẩy Trái Nghịch
Thúc Đẩy Cảm Xúc Nhục Dục

1
Tâm sinh lý, đời sống sinh lý và bản năng
- Nguồn gốc: đói, khát, ngủ, hành động, tỉnh thức, nuôi dưỡng, bài tiết, hô hấp
- Bảo vệ mình chống những đe dọa.
- Bắt tay vào sự tự mãn
- Tìm kiếm mọi sự thoả mãn cảm xúc mà không phân biệt được đâu là chủ thể và đối tượng như là nguồn của sự thỏa mãn

2
Phạm vi tâm lý xã hội của cái tôi kinh nghiệm đổ vỡ trong một con đường ích kỷ đối với thế giới, vạn vật và con người, trong thực tại này, ở đây và lúc này
- Phát triển cái tôi trong tương quan với thế giới và những người sống quanh tôi.
- Căn nguyên,
Cảm xúc, kính trọng, thành công, phát triển năng khiếu bản thân bằng cái tôi cho cái tôi.
- Xác định cái tôi trong nét riêng của nó.
- Chiến đấu cho sự tự chủ và quyền lực trên mọi sự và trên con người.
- Sự thù nghịch hủy hoại tất cả, chống lại những khát vọng của cái tôi.
- Tìm kiếm thoả mãn lý trí và khổ chế, danh dự
- Tìm kiếm tình yêu để nên một với người khác hay trong một nhóm.

3
Thiêng liêng
a. Phạm vi tinh thần nhân loại, con người, cái tôi vượt trên chính nó và mở ra cho những giá trị siêu hình và thiêng liêng trong một con đường ít nhiều có sự hy sinh quên mình.
b. Phạm vi Thần Khí, thiêng liêng - quy hướng về Chúa Kitô, trong Hội Thánh và quy hướng về Chúa Cha.

- Mở rộng cái tôi ra với chân, mỹ (siêu nghiệm), sự thiện luân lý, công bằng và tình yêu vô vị lợi.
- Để biết và sáng tạo.

- Yêu bằng hành động và sự thật
- Hãy mở ra cho sự sống Chúa Kitô nơi chúng ta trong sự sống Thần Khí.
- Hiệp thông, cầu nguyện, tôn thờ.


- Những trạng thái tinh xảo của danh vọng và kiêu căng.
- Quyền hành của kẻ bề trên, hạ thấp các đam mê thuộc lý trí, tự do ý chí con người .
- Nỗ lực tạo sự công bình trong thế gian.

- Hạ thấp những thế lực tự nhiên dành cho hoạt động biến đổi của Thần Khí.
- Hy sinh quên mình, tiết độ, vâng phục .
- Quảng đại, khiêm tốn, phục vụ tha nhân.
- Cố gắng làm mọi sự vì Đức Kitô, chịu đựng mọi thử thách, thay đau khổ bằng tình yêu.
- Kiên trì trong đức tin, sự trung thành.

- Tìm kiếm tình yêu và tình bạn thanh khiết.
- Khao khát thông giao và chia sẻ với người khác theo mức độ cao hơn của sự cảm thông và trong sự thân mật dạt dào hơn.
- Muốn hiểu biết và giải thích mọi sự.

- Khó nghèo tự nguyện, từ bỏ tất cả để được ý Chúa .
- Khao khát những gì là đời đời
- Yêu mến Thiên Chúa .
- Yêu thương tha nhân trong Chúa, hiệp thông với Ngài trong sự thật tận căn của Ngài, có thể nói trong Chúa Kitô và như Chúa Kitô, sẵn sàng hy sinh chính mình.
- Yêu kẻ thù.
- Mở rộng lòng yêu thương mọi người.
- Thinh lặng trước mầu nhiệm, cô tịch trong đời sống cộng đoàn.
- Tình yêu thuần khiết, món quà của cái tôi.
Trung tâm hữu thể chúng ta từ nay được xác định là Chúa Kitô chứ không phải là cái tôi chúng ta.
Ở từng cấp độ có sự siêu việt triệt để. Chúng ta hãy xem lại danh sách liệt kê từ trên xuống dưới. Sức mạnh vĩ đại của sự quả quyết và công kích được tìm thấy nơi chúng ta ảnh hưởng tới sự kiện toàn nghịch lý của nó trong sự hy sinh quên mình, vâng phục, quảng đại, khiêm tốn và kiên nhẫn chịu đựng. Sự thèm khát của cải sẽ chấm dứt trong tự do của đức khó nghèo tự nguyện, khao khát tri thức trong thinh lặng trước mầu nhiệm, khao khát sự thông hiệp tình yêu trong món quà thuần khiết toàn diện của bản thân đối với người khác.
Đó là mục đích để rồi chúng ta đi theo phục vụ đời sống chúng ta. Sự mở rộng của đời sống thiêng liêng không ngăn cản những nhu cầu của các cấp độ khác trong đời sống chúng ta. Chúng ta phải ăn uống để có thể ca ngợi vinh quang Thiên Chúa.
Trong thực tế, đời sống chúng ta là một sự tổng hợp tất cả các yếu tố này, những gì thấp kém hơn sẽ lệ thuộc những gì cao hơn. Bởi vậy, đây không phải là sự cản trở các nhu cầu tự nhiên. Tính tình và nhân cách chúng ta là chất liệu thô cho công việc thánh hóa nơi chúng ta. Đây là vấn đề hiểu biết mạch lạc và mang trách nhiệm về nó để rồi có thể sinh hoa trái. Không có gì là xấu trong dự phóng này. Ngay cả những vết thương sâu nhất cũng có khả năng được ân sủng đụng tới. Ngay nhiều vị thánh lúc đầu cũng đã có nhiều nhu cầu (vd: nơi thánh Bênađô, sự công kích - nhu cầu tìm ảnh hưởng) đã được thanh luyện cách tiệm tiến và đặt mục tiêu phục vụ những giá trị cao cả hơn của tình yêu thiêng liêng, được chọn lựa một cách cẩn trọng.
Điều thiết yếu đối với mỗi một người chúng ta là biết các nhu cầu chúng ta (chúng thay đổi từ người này sang người khác) và tìm được một cách thức để nhận ra chúng hay một con đường thanh luyện hợp với những giá trị và tình trạng của đời sống mà chúng ta đã chọn. Hình thức sẽ khác đối với mỗi người và sẽ là dịp để nhìn lại toàn bộ đời sống. Điều cần tránh là không thừa nhận và kìm hãm các nhu cầu để tìm thỏa mãn dưới những chiêu bài giả dối trái với những giá trị Tin Mừng mà chúng ta muốn dấn thân .
Một trong những lý do khó tìm ra và duy trì sự quân bình sức khỏe trong đời sống chúng ta là phạm vi giới hạn của khả năng để rồi nó bộc lộ thực trạng nhu cầu con người. Đời sống cô tịch thiết yếu được đặt dưới dấu thánh giá, dấu chỉ của một sự siêu việt tuyệt đối, không thể sinh hoa trái trừ khi nó được đặt dưới ảnh hưởng của tình yêu vĩ đại. Điều này đòi hỏi một đời sống thiêng liêng mãnh liệt và một sự trưởng thành nhân bản được triển nở đầy đủ. Chúng ta không thể mang những vết thương dù nhỏ mà không bị thiệt hại. Chúng ta có thể từ bỏ duy điều chúng ta sở hữu cách này hay cách khác.
Nắm chắc hơn thực tại phức tạp của con người (và trong mức độ lặp lại ) chúng ta sẽ chiếm giữ trước hết một cái nhìn tổng hợp (hãy nhìn những bảng bên cạnh và cố gắng hiểu hoạt động biến đổi để thực hiện từ trên xuống dưới trong mỗi cột). Rồi chúng ta sẽ nhìn thấy được quan niệm trưởng thành tâm lý.

Đây là một cách thức để phân tích hai tác động nền tảng:


TÁC ĐỘNG CÔNG KÍCH
Lành Mạnh
Không Lành Mạnh
- Khiêm tốn nhất là biết mình.
- Đương đầu với nguy hiểm bằng lòng can đảm và sức mạnh.
- Tự chủ, tự do ý chí con người.
- Cố gắng vượt qua những gì khó khăn.
- Thắng vượt trở ngại bản thân và kinh nghiệm bằng sự nhiệt thành với những lý tưởng cao thượng, công bình, tình huynh đệ…
- Kiên trì trong nỗ lực
- Chiến đấu trong tinh thần đạo đức .
- Biến đau khổ thành tình yêu.
- Hy sinh quên mình
- Quảng đại, khiêm tốn, vâng phục.
- Sự sống của Thần Khí.
- Thổi phồng khả năng bản thân (thường do thiếu sự kính trọng và cảm thấy hèn kém).
- Thống trị, độc đoán và những thái độ ngạo mãn.
- Thái độ thù ghét, chống đối mọi người gây ra sự thất vọng, còn tình yêu thì vượt trên tất cả.
- “Khát vọng tiêu tan”, người phá hoại.
THÚC ĐẨY NHỤC DỤC
Tham Lam và Chiếm Hữu
Thú Vui và Nhục Dục
Lành mạnh
Không lành mạnh
Lành mạnh
Không lành mạnh
-Những cảm giác và khao khát thường.
-Ham thấy và biết.
-Tìm kiếm những giá trị tinh thần và cái đẹp.
-Khao khát những gì đời đời.
-Khó nghèo tự nguyện.
-Từ bỏ để theo thánh ý Chúa.
- Thinh lặng trước mầu nhiệm.
- Quá tham ăn và uống.
- Tham của cải trong sự đói khát được kính trọng (khoe khoang), nịnh hót…
-Tình yêu thể lý và giới tính.
-Bác ái chung và riêng.
-Tình bạn, thông hiệp sâu xa và cao cả với tha nhân.
-Yêu thương kẻ thù, tất cả mọi người trong Đức Kitô.
-Yêu mến Thiên Chúa
-Cô tịch trong sự hiệp thông
-Phần thưởng của bản thân.
-Khiết tịnh, tình yêu thanh khiết.
-Tình yêu nhục dục và ấu trĩ :
Sự ấu trĩ, dâm dật, cuồng dâm, tình dục tự phát, lệch lạc trong tình dục, khổ dâm, thông dâm.



CHƯƠNG 19





TRƯỞNG THÀNH TÂM LÝ



Vì quan tâm xem xét những trạng thái này mà tâm lý (không làm nên sự phân định luân lý) có thể xem xét không thích hợp hoặc thích hợp, cách độc nhất từ dự phóng của sự hòa hợp giữa trưởng thành nhân bản và cá tính. Điều này được hiểu là một người kitô hữu được mời gọi giàu thêm – chứ không phải ngày càng nghèo đi. Thật không phải khi chúng ta sao nhãng cấp độ khiêm nhường này trong thực tại con người; thường thường đời sống thiêng liêng bị suy yếu là do thiếu nền tảng trong cấp độ con người.

TRẠNG THÁI BẤT XỨNG[1]

1. Những trạng thái mâu thuẫn và do dự bắt đầu hình thành nơi trẻ thơ và chúng thể hiện dưới hình thức nói ấp úng, nghi ngờ, đắn đo, ép buộc và những nỗi sợ hãi ám ảnh, cũng trong những hình thức chắc chắn của sự hoài nghi và chủ nghĩa hoài nghi tôn giáo, trong những hình thức của nhị nguyên có liên quan đến chứng cuồng loạn.
2. Những trạng thái thù địch phát xuất từ sự công kích tự phát của một người và cũng xuất phát từ những yếu tố khác thể hiện dưới hình thức giận dữ, hung dữ với người khác và chính mình, những lời lẽ sắc sảo và vu khống, chứng hoang tưởng bực bội, thù ghét.
3. Những trạng thái ngạo mãn là một hình thức khác của sự công kích phục vụ cho việc thống trị người khác và tự tin vào sự vượt trội của mình. Chúng thể hiện qua bạo lực, bất phục, khinh miệt và tự tung tự tác.
4. Trạng thái tham lam và độc chiếm qua việc cá nhân tìm kiếm thỏa mãn đồ ăn thức uống, thường bù trừ cho những mất mát khác, hay qua việc người ấy muốn chiếm đoạt của người khác, bằng sự lừa dối hoặc trộm cắp, không phải lúc nào cũng được áp dụng, tuy nhiên đúng là có thú thèm khát chiếm hữu của cải.
5. Tình trạng ham mê khoái lạc và cảm xúc tìm kiếm sự thỏa mãn chính đáng nhưng cũng là sự lạm dụng thú vui nhục dục và dễ bị lệch lạc.
6. Ở những trạng thái bảo vệ, con người không thể giữ được đời sống của mình khỏi những giới hạn mà chỉ bảo vệ cho khỏi nhiều hình thức của sự dối trá, cuồng loạn, nhị nguyên, đạo đức giả, những sự tha thứ giả tạo (ý thức hay vô ý thức), hình thành định kiến[1].
7. Ở những trạng thái nghịch lý thì một cá nhân không giữ được sự bảo vệ sinh động nhưng sẽ rơi vào trì trễ, với những cảm xúc hạ đẳng, kèm theo sự nhút nhát, buồn phiền, hành xử rập khuôn, rối loạn thần kinh và những tâm trạng chán nản nói chung.
8. Những trạng thái của sự thoái thác và bù trừ, vì đó mà nhiều người không tìm thấy được sự hài hòa nội tâm, trên một mặt phẳng khác và đôi khi trong thế giới ảo, chúng không thể có được những thỏa mãn trong thực hành lẫn trong thế giới thực.

TRẠNG THÁI XỨNG HỢP

A. Hướng Về Chính Mình
1. Tự chủ cảm xúc mà không cứng rắn hoặc quá khích. Nhờ nỗ lực tiệm tiến để nắm giữ những cảm xúc bằng việc tránh xa những tình huống gây sốc và bằng cách thuyết phục mình rằng một cố gắng nối dài sẽ được sinh động hóa nhờ một lý tưởng cao cả, khả dĩ phát triển mau lẹ hơn là sự luân phiên giữa đối đầu quá khích với mình và sự thờ ơ lãnh đạm.
2. Sự kiên định trong việc theo đuổi những mục đích đã được xác định nhờ sự phản tỉnh, khôn ngoan, cẩn trọng và chọn lựa một cách tự nguyện. Biết cách điều khiển năng lực của mình trong sự phục vụ các mục đích này mà không cảm thấy bị chúng lấn át.
3. Khả năng mở rộng quan niệm của một người nhờ vào sự gặp gỡ tiếp xúc chân thành vời người khác, mà không có đam mê hoặc sự bất trị chi phối, và nếu nó thích hợp, để tiếp nhận yêu sách hầu từ bỏ một quan niệm đã hình thành từ trước.
4. Sự khách quan trong phân định, có thể nói, là biết cách đánh giá theo giá trị thật của chúng về những nhân tố, lý do và động cơ bất xứng khác nhau để rồi đi vào sự phân định đúng đắn (trái với phân định là hấp tấp, linh hướng một cách vội vàng, quá sốt sắng).
5. Biết chịu trách nhiệm về những hành động của mình, chấp nhận hậu quả của nó mà không dùng người khác hoặc bất cứ cái gì làm bia đỡ đạn.
6. Biết dùng ý chí khám phá năng lực riêng với lòng can đảm, ở mức độ sung mãn nhất có thể làm được, khi gặp khó khăn không nên từ chối sự giúp đỡ của người khác.
B. Hướng Về Thế Giới Và Tha Nhân
7. Xây dựng một sự quân bình lành mạnh giữa hướng nội và hướng ngoại. Không quá lãnh đạm, cô lập khỏi thực tại cụ thể; hoặc hời hợt không có đời sống nội tâm, bất an và hay thay đổi. Sự quân bình giữa hai trạng thái khác nhau này theo tính tình và hoàn cảnh sống. Đối với đời sống chiêm niệm, chiều kích hướng nội thường được đề cao hơn.
Chúng ta cần biết ra khỏi mình để đến với tha nhân và vũ trụ, đồng thời cũng biết trở về với chính mình. Chúng ta cần biết đến với tha nhân mà không bị mất hút trong họ. Sự hiện diện đích thực đối với tha nhân bao hàm một sự hiện diện thực sự với chính mình để từ đó hiểu được tha nhân muốn gì hầu có thể cảm thông với họ.
8. Chấp nhận tha nhân là điều kiện của bất cứ đời sống xã hội nào. Hầu hết tất cả các chứng loạn thần kinh là do một hình thức của sự bất khoan nhượng của tha nhân và gây ra những phản ứng công kích, sợ hãi, ích kỷ, dối trá…vv. Chúng ta cần biết chấp nhận người khác với tất cả giới hạn cũng như khuyết điểm của họ. Bởi lẽ chúng ta cũng mang lấy kiếp người như họ.
9. Chúng ta hãy đón nhận những lời phê bình và góp ý của tha nhân.
10. Có khả năng đối mặt với những hoàn cảnh bất ngờ xảy đến và cả những bất hạnh; vượt thắng một trở ngại nhờ cố gắng “bắt đầu lại”. Bắt đầu lại mà không ngoái lại đằng sau cũng không tái phạm một cách can đảm và mang tính xây dựng.

NÉT ĐẶC TRƯNG
CỦA TRƯỞNG THÀNH KITÔ GIÁO

Chúng ta hãy kéo dài lăng kính tâm lý đối với một tiêu điểm Kitô Giáo chuẩn mực. Luật Chúa Kitô được tóm gọn trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Điều này đã bao hàm những giá trị nêu trên nhưng còn đi xa hơn trong khả năng yêu mến ngày càng phổ quát và chân thật hơn. Nhân đức mà Chúa Kitô đòi hỏi hoàn toàn trái nghịch với sự ích kỉ của con người đàng khác các nhân đức ấy thúc đẩy sự hiệp nhất giữa con người.
- Chống lại sự lôi cuốn của lạc thú, Chúa Kitô nêu cao mẫu gương khiết tịnh có sức nối kết mọi người trong một cấp độ vừa chung nhất lại vừa riêng nhất và mời gọi trở thành một món quà tuyệt hảo của bản thân trong tình yêu.
- Chống lại xu hướng bạo lực, Chúa Kitô nêu cao tính hiền lành, nhu mì, tha thứ cho nhau và yêu kẻ thù, là nền tảng của tất cả sự bình an chân thật.
- Chống lại cơn đói khát giàu có và tự mãn đang bùng phát trong sự hao mòn hoặc trong sự khinh miệt của người khác, Chúa Kitô nêu cao đức khó nghèo tự nguyện, tự do thoát khỏi sự tham lam (tự do để yêu mến), đức vâng phục khiêm hạ, đồng cảm và chia sẻ với người nghèo, người yếu đuối thấp hèn.
- Chống lại sự dối trá dưới mọi hình thức, thói đạo đức giả, Chúa Kitô nêu cao tính đơn sơ trong sự tin tưởng cởi mở đối với mọi người và Thiên Chúa, trong sáng dưới ánh sáng của sự chân thành để chấp nhận rằng chúng ta là những người tội lỗi và biết chấp nhận người khác.

TRƯỞNG THÀNH TÂM LÝ
TRONG ĐỜI SỐNG TU TRÌ

Chúng ta hãy cố gắng áp dụng nền tảng của những món quà này cho một người đan sĩ trong cấu trúc riêng của đời sống người ấy. Nhưng phải nói rằng đây sẽ là một đan sĩ rất lý tưởng.

Thái Độ Đối Với Bản Thân
Điều căn bản là có được một sự chấp nhận chính mình một cách lành mạnh như nó thực sự như thế, để có được sự tin tưởng và khả năng của mình hầu đối diện với cuộc sống để có một sự bảo đảm riêng tư chắc chắn. Điều này ít nhiều được thuận tiện hóa nhờ khả năng riêng và kinh nghiệm sống tuy nhiên giải thích cuối cùng ở mỗi trường hợp cần phải dựa trên tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta trong Chúa Kitô, và dựa vào quyền năng của Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta.
Đan sĩ trưởng thành sống trong thế gian là vì: người ấy không cần bóp méo nhận thức của mình như một lá chắn bảo vệ khỏi những cuộc chiến nội tâm còn dang dở. Người ấy đón nhận những nhu cầu chính đáng được nhận thức rõ ràng trong bản chất và tính tình của mình đồng thời hợp nhất với các giá trị của ơn gọi mình. Người ấy phải là mình với tất cả sự đơn sơ.
Bởi lẽ năng lực của người ấy không được tiếp sức bằng cuộc chiến đấu giải quyết những xung đột nội tâm, thế nên người ấy có thể đối phó với những căng thẳng phát sinh từ sự hy sinh từ bỏ trong đời sống tu trì, thiếu đi sự suy xét sâu sắc trong cô tịch và thiếu sự phản tỉnh đối với bản thân nhờ một người khác mà sự cô tịch đòi hỏi. Người ấy cũng có thể đối phó với những hoàn cảnh bất ngờ xảy ra và những thử thách khó tránh khỏi. Người ấy chứng tỏ một sự kiên định bền bỉ trong tư thế mở ra cho kinh nghiệm sâu xa.
Thái Độ Đối Với Người Khác
Muốn có lòng tin đan sĩ cần có sự tin tưởng vững vàng vào người khác. Tương quan của đan sĩ với người khác hàm chứa một chút bối rối và mâu thuẫn (khi người khác được hiểu như một mối đe dọa). Đan sĩ yêu thương mọi người trong Chúa Kitô không chút vị kỷ, không vì họ là ai, họ có gì, cũng không vì phần thưởng cá nhân.
Tương quan giữa đan sĩ với người khác được mô tả vừa không phải bằng sự lệ thuộc mà cũng không bằng sự tự lập nhưng bằng sự tin tưởng và trách nhiệm. Đan sĩ đảm nhận những yêu sách của đức vâng phục mà không cảm thấy bị làm nhục đồng thời cũng không giảm bớt trách nhiệm và sáng kiến.

Với Những Giá Trị Của Ơn Gọi
Một cách tự nguyện và riêng tư, đan sĩ chọn lựa các giá trị và đảm nhận nghĩa vụ của ơn gọi mình bởi vì các giá trị chung ấy có sự hài hòa với các giá trị căn bản của đan sĩ, với những gì mà đan sĩ quy tụ trong hệ thống đức tin riêng của mình. Đan sĩ không chống lại nguyên tắc đạo đức mà cũng không tuân theo luật lệ đã thiết định trong đời sống một cách mù quáng và bối rối. (Cả hai phản ứng trên đều xuất phát từ cùng một tâm lý máy móc. Cả hai một cách vô thức đều viện cớ mình là một thành viên của Dòng chứ không thực hiện các giá trị thiêng liêng của một lý tưởng riêng đáng tin, nhưng như rào chắn chống lại các nhu cầu xung khắc (vô thức) và như một quyết định thiên vị trong sự thất vọng sâu xa nhất của mình).
Đan sĩ không đồng hóa sự bảo đảm riêng mình với những hình thức và luật lệ ngoại tại, và cũng không cảm thấy bị đe dọa khi những yếu tố trên được xem xét lại hay được thay đổi.
Đan sĩ phân biệt giữa cái chính và tùy, giữa sự dung hòa ở cấp độ hành động cụ thể. Đan sĩ tôn trọng sự đa dạng của các đặc sủng .
Đan sĩ cho thấy sự linh động và thực tế trong cách thể hiện cụ thể những giá trị của ơn gọi mình, tránh được sự cầu kì cũng như quá cứng rắn.
Đan sĩ biết chấp nhận giới hạn của tự do cá nhân mình nghĩa là thuộc về một cộng đoàn. Đan sĩ đặt mình trong trường học truyền thống trong khi vẫn trung thành với đặc sủng của mình.
Thái Độ Đối Với Thiên Chúa
Đan sĩ biết vượt trên tình phụ mẫu và những mẫu gương khác của Thiên Chúa để lao mình vào huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa được mặc khải trong Đức Kitô. Cho phép mình được yêu và trao ban khả năng yêu thương trong sự đáp trả, một tình yêu không chút sợ hãi nhưng tôn trọng, tự nguyện, tin tưởng và thánh hiến.
Cầu nguyện là một nhu cầu sống còn đối với đan sĩ; tôn thờ là tác động tự phát của đan sĩ; vâng phục là một phận vụ của tình yêu; niềm vui của đan sĩ là mở lòng ra cho ánh sáng.
Sự thật, bình an, tự do và tình yêu.

PHỤ LỤC
Cửa “Johari”

Tự biết mình Thiếu tự biết mình
Người khác
biết đến
Không được người khác biết đến

Công khai mình

Cái tôi mù quáng

Ẩn mình

Không biết hoặc khả năng tiềm ẩn
LỜI NHẮN NHỦ
Chúng ta đừng ngã lòng nếu chúng ta phải nhìn nhận sự thiếu trưởng thành của mình ở bất cứ điểm nhấn nào và nhận ra rằng chúng ta còn xa mới đạt được lý tưởng. Như chúng tôi đã nói, những trạng thái không xứng hợp không nhất thiết là những khuyết điểm trong cái nhìn luân lý. Chúng là một sự diễn tả xa hơn những vết thương và sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta muốn là và muốn làm mọi sự để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong tình yêu.
Con người chỉ trưởng thành được trong nỗ lực bền bỉ thường kéo dài suốt cuộc đời. Đôi khi có những vết thương và mất mát nào đó trong lịch sử đời chúng ta, từ tuổi thơ, những yếu tố ấy đã hình thành dần cấu trúc con người chúng ta và có thể không bao giờ được chữa lành triệt để mà chỉ được đón nhận mà thôi.
Cũng có những trạng thái được thuyên giảm nhờ một chương trình giáo dục thích hợp. Nỗ lực này cần phải thận trọng, thăng tiến và bền bỉ. Ngay từ đầu cần phải có một sự hiểu biết rõ ràng về nhân đức được tìm kiếm hoặc trạng thái khiếm khuyết được sửa đổi. Nó đòi hỏi một ý chí kiên cường để hoàn thành ý hướng thanh khiết. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa đủ. Không có một nỗ lực thăng tiến và bền bỉ để hoà hợp đời sống bản năng và cảm xúc với những kỷ luật tinh thần, thì sẽ có một nguy cơ trong những đáp trả của người ấy để rồi còn lại dư âm tư tưởng thèm muốn. Cần có sự rèn luyện đặc biệt, có thể nói lặp lại những thực hành khổ chế, tạo thành những thói quen tốt lành, nối những thói quen thực hành ấy với lý trí, khả dĩ kiểm soát được mọi sự thúc đẩy và sức lực, làm thuận tiện hóa trạng thái và ý chí. Cần có thời gian và lòng kiên nhẫn để hoàn thiện hoá thực hành này.
Tuy nhiên cũng có một nguy hiểm thực sự. Một chủ nghĩa khổ hạnh và chỉ dựa vào ý chí để tạo nên một chuỗi đáp trả cứng rắn mang tính máy móc để tạo ra được cách cư xử và ngăn cản cá nhân thích ứng với những hoàn cảnh mới trong cuộc sống và đan sĩ sẽ phải đối chiếu với những thay đổi. Hơn nữa, cám dỗ rất lớn dành cho vị thầy cũng như dành cho cá nhân được đẩy nhanh tiến độ bằng thái độ thách thức với những đe dọa thêm vào, những tổn thương và sự sỉ nhục, những hình phạt, những gì làm cho xa lánh nhiều hơn là những thói quen thường đạt được - đặc biệt trong nội dung đời sống tu trì, ở đó các luật thánh có một đặc tính “thiêng liêng”.
Trong hình thức này, những đáp trả đạt được một cách thận trọng (và cần thiết) có nguy cơ giam hãm và xa lánh tinh thần, thay vì phục vụ nó. Loại bỏ điều này thật quan trọng để dàn xếp quá trình nhờ cảm xúc, nó thêm vào ý chí tốt lành, khuynh hướng tích cực của giác quan hướng về những quy luật của tinh thần. Nó phải đưa trái tim vào sự cân nhắc nhờ vào hoặc là chống đối hoặc hợp tác, có thể cản trở hoặc làm thuận tiện nỗ lực đạo đức bằng việc huy động khả năng của con người toàn diện.
Khai thông một cảm xúc thất vọng hay tổn thương để có thể huy động nỗ lực mà lý trí thực hiện trên bản năng và vì vậy có thể thu phục được các thói quen dục vọng.
Đan sĩ nên cố gắng để mình được quyến rũ bởi vẻ đẹp của ơn gọi mình. Trên hết tất cả là vẻ đẹp của Thiên Chúa, nhưng cũng là vẻ đẹp của đời sống hằng ngày trong mọi chiều kích của nó, con người và óc thẩm mỹ. Đan sĩ nên yêu mến phận vụ của mình. Tình yêu thì có hiệu lực hơn thứ luật lệ cứng rắn và nghiêm khắc được thực thi một cách nguyên tắc bằng những cấm đoán và áp đặt từ “bên ngoài”. Tình yêu làm cho chúng ta vui vẻ hơn, nhân từ hơn và uyển chuyển hơn trước những luật lệ khả dĩ giúp chúng ta dễ đến với người khác và thay đổi nhiều tình huống.
Xa hơn, trái tim sẽ được động viên nhờ sự phục vụ điều chúng ta muốn yêu mến. Đồng nhất cảm xúc chúng ta là cần thiết cho sự hợp nhất của con người. Không có nó, chúng ta có một nguy cơ duy trì sự dối trá nào đó trong hành xử của mình, những mâu thuẫn trong tư tưởng, những chống đối; sử dụng sức mạnh ý chí chỉ làm cho những cố gắng khổ chế ra vô ích mà thôi.
Tóm lại, chúng ta không nên có bất cứ ảo tưởng nào. Chỉ có cảm nhận ý thức “cao” mới có thể dạy bảo và có thể giáo dục ở một cấp độ bền bỉ được. Cảm xúc “hèn hạ hơn”, vô ý thức không lệ thuộc vào lý do và không thể hiểu được trong mức độ rộng.







CHƯƠNG 20




HÀNH TRÌNH VĨ ĐẠI

Hai người trong anh em sẽ nắm bắt được thói lệ. Cả hai đều tiến xa trong việc tìm kiếm Thiên Chúa. Từ góc độ này, chúng ta có thể nhìn thấy bước kế tiếp của họ. Chúng ta hãy nói về hành trình vĩ đại đang mở ra trước mắt họ.
Một lần nữa chúng ta hãy đi vào một vài giải pháp của thánh Luca (9,51-52): cách này trình bày phần chính yếu trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu như một hành trình vĩ đại hướng về Giêrusalem. Vì vậy trước hết chúng ta hãy lần theo chủ đề này trong toàn bộ Tin Mừng.
Phần thứ nhất của Tin Mừng theo thánh Luca trình bày cuộc giáng sinh và giáng lâm của Chúa Giêsu, Lời của ân sủng trong Thánh Thần, rồi quy tụ các môn đệ quanh Chúa Giêsu (1,5-4,44). Đấng ít nhiều được nhận biết như là Đấng Mêssia qua dấu chỉ quyền năng và lời giảng dạy của Người (4,45-9,17). Mọi cái nhìn đều đổ dồn vào Người trong niềm hy vọng khao khát mong chờ ơn cứu độ.
Thế rồi một thời đại mới được mở ra (9,18-17,10). Từ nay về sau con người Giêsu không còn được ưu đãi đặc biệt, Người trở nên như con người dần dần bị tước đoạt hết những gì riêng tư, thực hiện con đường của mình theo ý Cha như lần Ngài lên Giêrusalem. Chính Ngài ngày càng “làm nhiệm vụ giới thiệu Chúa Cha”, “mặc khải Chúa Cha”, “lời hứa của Thánh Thần”. Hành trình của Ngài và của chúng ta không có tính chất không gian, đúng hơn là thiêng liêng.
Cầu nguyện, sống nội tâm, nắm giữ một không gian ngày càng vĩ đại, thậm chí như mầu nhiệm thân tình của Chúa Giêsu đã được mặc khải cho những ai bước theo Người. Đó là vấn đề của sự nhận biết Ngài là Thần Khí, và Ngài đã vâng phục Chúa Cha trên con đường lên Giêrusalem, và của lời mời gọi các môn đệ Người cùng đi với Người, đi theo Người, trong một sự vâng phục phản chiếu chính con người của Người.
Bởi vậy, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (chs. 9-13) và phần thưởng (chs.14-17). Việc đính hôn giữa con người với Chúa Giêsu không phải là công việc mang tính con người bên ngoài: nó chỉ có thể được đón nhận như một ân huệ: chúng ta hãy xem tiến trình này.


Trước hết chúng ta hãy lắng nghe Chúa Kitô:
“Hôm ấy, Đức Giêsu cầu nguyện một mình. Các môn đệ đang ở đó với Người và Người hỏi các ông rằng: ‘dân chúng nói Thầy là ai?’ Các ông thưa: ‘Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác thì cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại’. Người lại hỏi: ‘còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?’ Ông Phêrô thưa: ‘Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa’. Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.
Người còn nói: ‘Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kì mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.’
Rồi Đức Giêsu nói với mọi người: ‘ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
Vì người được cả thế gian mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi ích gì? Ai xấu hổ vì Tôi và những lời của Tôi thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Cha và các thánh thiên thần’. Nhưng Thầy bảo thật anh em: ‘trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa’” (Lc 9,18-27).
“Trong khi Đức Giêsu đang cầu nguyện” (9,18). Chiều kích nội tại của con người Ngài được quang toả. Đối với dân chúng, đối với các môn đệ: “Thầy là ai?” Sự cầu nguyện của Ngài đặt trong sự hiện diện của Chúa Cha, đó chính là sự hiện hữu với và vì Chúa Cha. Danh xưng là Con được hình thành trong tương quan với Thiên Chúa Cha và chúng ta không thể nhìn thấy chính xác góc độ đó.
Phêrô tuyên xưng Ngài là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, Mêssia. Nhưng để đi tới đỉnh cao của hành động đức tin của Ngài thì chỉ hiểu được trong cầu nguyện, để tiếp tục “thực hiện con đường của mình” đối với Chúa Cha.
Việc đi vào mầu nhiệm của con người Giêsu khởi đầu với mặc khải số phận dành cho Ngài: vượt qua và phục sinh. Định mệnh này được đặt dưới dấu chỉ cầu nguyện (v.18); do đó việc nhấn mạnh ở đây là con đường của Chúa Cha hơn là nhu cầu của cái chết. Đối mặt với nhu cầu này (“ngài phải”), ngay cả thái độ của các môn đệ cũng muốn thay đổi. Đây không đơn thuần là một cách mạng đối với Chúa Giêsu. Đó là lời cam kết đi theo Ngài để đến với Chúa Cha: “Hãy đến với tôi” (9,23). Con đường này (Phục sinh) dẫn đến Chúa Cha là một thách đố đối với mỗi người, một sự siêu việt triệt để.
Muốn chia sẻ thân phận của Đức Giêsu trong việc đến với Chúa Cha đòi hỏi một sự hãm mình, vác thánh giá mình mỗi ngày. Sự hãm mình không phải là từ bỏ hay chối bỏ không còn là mình; nhưng chính là đón nhận đời sống mình như là ân huệ mà chúng ta cần rộng mở đôi tay của mình và mỗi ngày kéo dài cuộc chiến với khả năng mỏng dòn của lòng mến và tự nguyện chống lại thế lực nguy hại trong và quanh chúng ta. Chúng ta không thể cứu được đời sống chúng ta vì cái chúng ta cứu chỉ là lớp vỏ bên ngoài bằng việc tự quy hướng về mình hay trốn tránh đau khổ và sự chết với bất cứ giá nào. Thà rằng đi ra ngoài đối diện với chúng. Đó là vấn đề từ bỏ tất cả sự tự mãn để rồi tìm thấy trong Đức Giêsu lý do duy nhất để sống, niềm hy vọng duy nhất cho sự công chính, cho tình yêu, cho sự sống.
Nó phục vụ cho mục đích nào nếu chúng ta chinh phục thành công hay quyền lực, nếu đó là hoa trái của thành công hay tham vọng cá nhân, một sự nô lệ tai hại và hèn hạ? Chính vì người môn đệ đi theo Thầy nhờ chịu thử thách trong cám dỗ và tìm thấy ơn cứu độ trong Ngài, nên người môn đệ từ bỏ mọi nỗ lực phi thường. Sự thật đời đời mà chúng ta sống ở đây sẽ được vén mở nơi khuôn mặt Con Người và Chúa Cha cùng với các thánh thiên thần.
Và lời hứa huyền nhiệm này như sau: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (v.27): điều này không có ý muốn nói rằng họ sẽ thoát khỏi cái chết thể lý, nhưng đúng hơn trong sự đau khổ hiện tại họ được nối kết với Đức Giêsu, họ sẽ được nếm quyền năng phục sinh của Người. Động từ “nhìn thấy” gợi ý sự thông dự kín nhiệm trong sự sống phục sinh, đó là chiêm niệm thần bí. Ít nhất một số người sẽ được nhận thức lời hứa này, họ được mời gọi sống đời chiêm niệm. “Hãy nếm và nhìn coi Chúa thiện hảo dường bao!”.
Chi tiết của cuộc biến hình vén lên một góc của bức màn che mầu nhiệm “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Phêrô, Giacôbê và Gioan được bao bọc bởi lời cầu nguyện của Đức Giêsu để rồi có thể nhìn thấy Ngài trong vinh quang cùng với Môsê và Êlia. Hai vị này nói với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành”[1] của Người và Người sẽ hoàn tất ở Giêrusalem. Thuật ngữ “xuất hành” gợi lại một cuộc giải phóng khỏi Ai Cập dưới sự dẫn dắt của Môsê, và đó là lý do tại sao Người hiện ra. Sau đó (v.51), bản văn nói về con người “được nâng cao” của Ngài, như cuộc thăng thiên của Êlia sẽ lặp lại trong những ngày của Đấng Kitô (2v2,9-11) và đó là lý do tại sao ngôn sứ cũng xuất hiện ở đây.
Giêrusalem được tiền định là nơi phải đến. Từ nay trở đi nó là nơi quy tụ của mọi khía cạnh của cuộc đời Đức Giêsu: Ngài tới đó để được ở với Cha Ngài.
Trong tư cách là người con, Ngài biết rằng Ngài sẽ ở với Cha Ngài (2,49). Ngài được Chúa Cha yêu thương từ đời đời. Ý nghĩa của việc “thực thi con đường của Ngài” ở trần gian là để lên cùng Cha - Đây là sự hoán chuyển lời cầu nguyện của Ngài đi vào lịch sử, khuôn mặt của Ngài, con người thảo hiếu của Ngài quy hướng tuyệt đối về Cha.
Mầu nhiệm của con đường này vượt trên sự hiểu biết của con người, và Phêrô muốn làm ba cái lều ở đó. Đó không phải là việc của con người, đó cũng không phải là việc của chúng ta khi muốn xây dựng cho Thiên Chúa một nơi cư ngụ bằng nỗ lực của “nhân đức” chúng ta hay bằng những sáng kiến của lý trí chúng ta. Chính Thiên Chúa phủ bóng trên chúng ta bằng sự hiện diện của Người, như Người đã phủ bóng trên Mẹ Maria trong cuộc truyền tin (1,35). Một cách tự nhiên, vì e ngại, sợ hãi nên chúng ta không có chiều sâu. Chúng ta biết rằng muốn thấy Thiên Chúa thì phải chết (Tl6,22-23). Nhưng đây là mặc khải: con người mà Đức Giêsu mang theo với Người đi vào đám mây và đón nhận một sự chia sẻ trong chiều kích thiêng liêng mật thiết. Do đó, chúng ta hãy đi với Người, cùng Người lên Giêrusalem, đi lên cùng Tôi Tớ Thiên Chúa để cùng đối diện với cơn hấp hối của Người.
Rồi đi xa hơn cùng với Đức Giêsu quyết đi một cách dứt khoát: “khi tới ngày Đức Giêsu được rước lên Nước Trời, Người nhất quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Từ “nhất quyết” cho thấy một là quyết định của con người Ngài hai là con người của Ngài hướng về mục đích, đó là Chúa Cha.
Về phía chúng ta, chúng ta hãy có những sự nhất quyết riêng của mình. Con đường đi sẽ khó khăn nhưng chúng ta đừng để mình bị lạc hướng vì những khó khăn ấy. Chúng ta cần có một quyết định dứt khoát. Chúng ta không được phép từ bỏ, vì cái gì cũng có thể đến được. Như tôi thường nói: “muốn kiên trì ở Chartreuse thì sự tự nguyện này phải kiên quyết; đối với mỗi người chúng ta ở thời điểm này hay thời điểm kia luôn có một lúc nào đó cho thấy lý lẽ hợp lý và chính đáng để từ bỏ con đường này…
Sự hiện diện của Đức Giêsu làm cho con đường của Người lên Giêrusalem được thực hiện bằng một sự phân định của những tấm lòng. Người Samari xa lánh Người chỉ vì định hướng của Ngài. Cũng đã xảy ra tương tự như vậy xuyên suốt lịch sử. Đây sẽ là số phận dành cho chúng ta, nhưng chúng ta không nên sợ hãi. Cuộc phán xét của Chúa Giêsu không phải là sự kết án. Giacôbê và Gioan muốn gọi lửa từ trời xuống nhưng đã bị Chúa khiển trách (9,54-56). Thay vào đó, Đức Giêsu mang đến cuộc phán xét của sự tha thứ và xót thương (23,24). Ngài muốn kiện toàn chứ không phải huỷ bỏ; muốn cứu độ chứ không để hư mất.
Chúng ta hãy nhìn ba cảnh tượng ngắn có nghĩa cụ thể: Muốn cùng Đức Giêsu đến với Chúa Cha: “khi họ đang đi đường thì có người nói: “Thầy đi đâu tôi cũng đi theo Thầy” nhưng Đức Giêsu bảo người ấy: “con chồn có hang, chim trời có tổ; nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (9,57-58). Sau khi sinh ra ở Bêlem và cho đến bây giờ, Đức Giêsu vẫn đang sống như một người xa lạ, một người tạm trú. Các môn đệ sẽ bị bỏ rơi trong sự mạo hiểm tương tự của khó nghèo và tình trạng bấp bênh.
“Người nói với một kẻ khác ‘hãy theo tôi’ nhưng người ấy bảo: ‘thưa Thầy, xin cho tôi về chôn cất cha tôi trước đã’. Nhưng Chúa Giêsu nói với người ấy: ‘hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của họ; phần anh, hãy đi loan báo Nước Trời’” (9,59-60). Lần này thì Đức Giêsu đã đi bước trước. Ngài đã nhìn thấy gì nơi lòng người thanh niên này? Có thiện chí nhưng lại e ngại. Hẳn là Ngài đã tác động nơi anh ta. Người đàn ông xin hoãn lại; đúng là, một người Do Thái trong phận làm con thảo hiếu phải có nghĩa vụ chôn cất cha mẹ mình (St50,5…). Câu trả lời của Đức Giêsu là bất khoan nhượng. Nước Trời cần được ưu tiên trên cả nghĩa vụ này, dù nó có thiêng liêng (Lc14,26). Sự sống đến trước cái chết. Ngoài ra, quyền lực của cái chết thì không quan trọng bằng ánh sáng của lời hứa sống đời đời.
Câu chuyện thứ ba như câu chuyện thứ nhất, nói về một người tuyên bố: “tôi sẽ theo Thầy nhưng cho tôi về từ biệt người thân trước đã”. Đức Giêsu trả lời: “ai đã tra tay cầm cày mà ngoái lại đằng sau[1] thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (9,61-62). Người ấy chỉ đưa ra một điều kiện và có vẻ rất hợp lý: trong một hoàn cảnh tương tự, Êlisa đã được Êlia gọi làm ngôn sứ, Êlia đã ném áo choàng của mình trên môn đệ; Êlisa xin phép: “xin cho phép con về chôn cha mẹ con rồi con sẽ theo thầy” (1V19,20). Và Êlia đã cho phép ông về nhà mình. Nhưng Chúa Giêsu thì không cho phép. Những ngày sau cùng đã đến nên cũng sẽ có một lần quyết định sau cùng, kairos. Việc đi vào Nước Trời sẽ không cho phép trì hoãn. Ai có thể biết rằng ơn ban của Ngài hôm nay sẽ tiếp tục trong ngày mai? Bởi vậy trên hết nó không cho phép bất cứ ai ngoái lại đằng sau.
Ở tuổi 12, Chúa Giêsu đã quy hướng sự quan tâm của cha mẹ mình về Chúa Cha khi họ tìm kiếm Người trong đền thờ (Lc2,49). Tâm trạng của Ngài vẫn không thay đổi, thậm chí còn có tính cấp bách hơn cho những ai muốn theo Người trong “cuộc xuất hành – nâng lên” của Ngài. Người môn đệ Chúa Giêsu chỉ có mối bận tâm là: “quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước…tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao[1] Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl3,13-14).
Hẳn một bài học tâm lý có thể được trình bày trong sự hy sinh ba lần này, sự đổ vỡ trong hình ảnh người mẹ (dấu chỉ của sự bảo vệ bên ngoài, an ủi gia đình) với hình ảnh của người cha (tiêu biểu cho tôn giáo của bổn phận bạn phải làm điều này và bạn sẽ được ở trong hàng ngũ, trong sự bảo đảm, trước những lệnh truyền của Thiên Chúa, của tình yêu), với những mối quan hệ họ hàng và gánh nặng áp lực, và tất cả điều này đều phục vụ cho mục đích đáng tin, trưởng thành, tự nguyện theo Đức Kitô trong sự mạo hiểm của tình yêu nhưng không.
Mỗi một con đường, lời mời gọi gợi hứng để người môn đệ mời Ngài đi vào lời cầu nguyện của Chúa Con, để trở thành một người con, để quy hướng tất cả con người Ngài về với Chúa Cha, tại đây và lúc này hầu bẻ gãy gông cùng đang ràng buộc cái tôi của Ngài. Ngài được mời lên cùng Cha, từ bỏ mọi sự để tìm thấy sự sống đời đời, cung lòng Chúa Cha. “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl3,10-11).
Chúa Giêsu đã hoàn tất hành trình riêng của mình và Ngài được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha. Tuy nhiên, Ngài không để chúng ta mồ côi. Ngài đang hiện diện một cách sống động với chúng ta. Câu chuyện Emmau là minh chứng sống động cho sự hiện diện của Ngài (Lc24,13-32).
Sau cuộc tử nạn của Ngài, hai môn đệ đã trở về một làng tên là Emmau. Họ từ Giêrusalem trở về. Họ buồn phiền, thất vọng và không hiểu những gì đang xảy ra. Tất cả niềm hy vọng của họ đều tan theo mây khói. Tuy nhiên, họ nói về những gì họ đã nhìn thấy và quả thực, họ đã tìm lại mình nhờ chất liệu của việc loan báo cuộc phục sinh của Đức Kitô trong ngày thứ ba: câu chuyện của những người đàn bà, thân xác bị lấy mất, nhìn thấy các thiên thần, lời chứng của những người đồng môn. Nhưng họ không thể móc nối các sự kiện ấy lại với nhau được. Họ không nhìn thấy. Chìa khoá không thuộc về họ. Một vị khách lạ đến gần và cùng đi với họ. Trước hết, Ngài lắng nghe trong thinh lặng, sau đó Ngài dẫn họ đến với Lời Chúa; Ngài làm cho họ hiểu được tất cả những gì xảy ra. Dự phóng của Ngài hiện ra trước mắt họ một cách sống động. “Không biết rằng…”, lời này tóm lại lời đầu tiên của con trẻ Giêsu trong đền thờ (Lc2,49). Cuối cùng thì các môn đệ đã hiểu được. Lòng họ bừng cháy lên nhờ lời Chúa Giêsu chứa đựng Thần Khí, lửa mà Ngài mang đến là để cho nó bùng lên trên mặt đất (Lc12,49). Ngài chữa lành trái tim họ, Ngài đánh thức đức tin trong những cõi lòng “chậm tin” (Lc24,25).
Vì vậy đôi lúc cũng xảy ra cho chúng ta, chúng ta không hiểu được ý nghĩa của những gì chúng ta sống, ý nghĩa của con đường chúng ta đi. Thế rồi một ngày nào đó, ánh sáng sẽ toả rạng nhờ Thần Khí và Lời. Thật cần thiết biết bao…Chúa Giêsu Kitô chịu đau khổ thật là cần thiết - chính Đức Kitô chịu đau khổ, Ngài đã đi con đường của Ngài cùng với chúng ta tới chỗ rốt cùng của thế gian để rồi đi vào vinh quang.
Họ đã tiến lại gần làng và Đức Giêsu làm như còn phải đi nữa. Quả thực Ngài sẽ làm cho chúng ta thấm nhuần đức tin một cách sâu xa hơn. Đức tin không chỉ được nuôi dưỡng bằng lời lẽ suông mà còn nhờ một sự hiện diện. “Ở với chúng ta…”. Rồi Ngài đã đi vào và ở lại với họ. “Ngài cầm lấy bánh dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho họ” (Lc24,36). Bánh hấp dẫn nơi sa mạc, bánh Cha ban, bánh mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với những tội nhân, với những người Pharisêu, với các bạn hữu của Người, là bánh Thánh Thể của Ngài trao ban có khả năng làm cho sự sống chúng ta được thông phần với sự sống của Người, bởi lẽ Người đã chọn ngồi đồng bàn với chúng ta.
“Mắt họ được mở ra và họ đã nhận ra Ngài” (Lc24,31). Sự hiện diện của Chúa Giêsu được nhận ra một cách hoàn toàn trong giây phút này. “Người đã biến mất”. Ngài đã biến mất như một sự hiện diện có thể chạm tới, có thể nhìn thấy để có thể trở thành một hình ảnh của điều chúng ta đang sống. Bánh chia sẻ với một người anh em, nghi thức tưởng niệm hy lễ của Ngài làm cho Ngài hiện diện. Đấng phục sinh đang ở đó, sống động nhưng không nhìn thấy được, trong những yếu tố của tấm bánh bẻ ra nhưng cũng trong tấm bánh với những yếu tố và sự xuất hiện rất bình thường. Khi chúng ta vượt qua những yếu tố ấy, thì hẳn Chúa Giêsu cũng rất gần gũi, Ngài nhìn thấy chúng ta. Nhưng bây giờ để đức tin của chúng ta được sáng hơn, Ngài dẫn đưa chúng ta vào một sự hiện diện nội tâm hơn của đức tin: sự hiện diện của con người Ngài nơi Thánh Thể và các bí tích khác, hiện diện nơi Giáo Hội, nơi tấm bánh bẻ ra của một đời sống chia sẻ hằng ngày với anh em chúng ta. Bởi lẽ chúng ta cùng đi về một hướng, về với Chúa Cha.
Có hai người trong các bạn; hãy cùng đi với chúng tôi, và chúc các bạn thượng lộ bình an!

“Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về,
Ta tưởng mình như giữa giấc mơ.
Vang vang ngoài miệng câu cười nói,
Rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán:
“Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!”
Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại!
Ta thấy mình chan chứa một niềm vui.

Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con trở về,
Như mưa dẫn nước về suối cạn miền nam.
Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống,
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng”.
(Tv125)[1] (Thuật Lại Cuộc Ly Biệt, bản Vulgata).