|
16/11 – Thánh Margaret Tô Cách Lan (1050?-1093)
Thánh Margaret là một phụ nữ thực sự được tự do theo nghĩa tự do là chính mình. Đới với ba, điều đó nghĩa là tự do yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Bà không phải là người Tô Cách Lan. Bà là con gái của công nương Agatha nước Hungary và Hoàng tử Edward Atheling người Anglo-Saxon. Hồi nhỏ bà sống trong triều đình của ông chú Edward, vua nước Anh. Gia đình bà trốn William, kẻ xâm lăng, và bị đắm tàu ngoài khơi Tô Cách Lan. Vua Malcolm thân quen với họ và bị “hút hồn” vì mỹ nhân kiều diễm Margaret. Rồi họ kết hôn với nhau tại lâu đài Dunfermline năm 1070.
Vua Malcolm tốt bụng, nhưng cộc cằn và kém văn hóa. Vì tình yêu của vua Malcolm dành cho mình, Margaret có thể thuần hóa chồng và giúp chồng trở thành vị vua nhân đức. Bà cố gắng thúc đẩy nghệ thuật và giáo dục. Về việc cải cách tôn giáo, bà khuyến khích mở những công nghị và thảo luận để cố gắng chấn chỉnh các sự lạm dụng tôn giáo trong giới giáo sĩ – như mua bán chức thánh, cho vay nặng lãi và loạn luân. Bà còn cho xây dựng vài nhà thờ.
Bà không là nữ hoàng mà là một người mẹ. Vợ chồng bà có 6 con trai và 2 con gái. Bà đích thân giám sát các huấn thị tôn giáo và các việc nghiên cứu khác.
Bà giàu có nhưng sống khổ hạnh, mỗi ngày bà cầu nguyện và đọc Kinh thánh vài lần. Bà ăn ít và ngủ ít để có thời gian làm việc đạo đức. Vợ chồng bà có 2 mùa chay, một mùa chay trước lễ Phục sinh và một mùa chay trước lễ Giáng sinh. Trong những mùa đó, vợ chồng bà dậy từ nửa đêm để đi dự thánh lễ. Trên đường về nhà, bà thường rửa chân cho 6 người nghèo và bố thì cho họ. Xung quanh bà luôn có những người ăn xin, và bà không bao giờ từ chối họ. Bà không bao giờ ngồi ăn nếu chưa cho 9 trẻ mồ côi và 24 người nghèo có đồ ăn.
Năm 1093, vua William Rufus bất ngờ tấn công lâu đài Alnwick. Vua Malcolm và con trai cả là Edward đều bị giết. Lúc đó bà đang trong cơn hấp hối, bà qua đời vào 4 ngày sau.
17/11 – Thánh Elizabeth Hungary (1207-1231)
Tuy cuộc đời ngắn ngủi nhưng thánh Elizabeth đã chứng tỏ tình yêu vĩ đại dành cho người nghèo và người đau khổ. Bà là bổn mạng của Hội bác ái Công giáo và Dòng Ba Phanxicô. Là con gái của vua nước Hungary, nhưng bà lại sống khắc khổ và đền tội.
Lúc 14 tuổi, bà kết hôn với Louis của Thuringia (một quốc vương Đức quốc), người mà bà cũng rất yêu thương; họ có 3 người con. Được một tu sĩ Dòng Phanxicô linh hướng, bà sống đời cầu nguyện, hy sinh, phục vụ người nghèo và bệnh nhân. Để giống người nghèo, bà ăn mặc đơn giản. Hàng ngày bà đưa bánh cho hàng trăm người nghèo trong vùng đến xin bà.
Sau 6 năm kết hôn, chồng bà tử trận trong đoàn Thập tự quân, bà rất buồn. Gia đình chồng cho là bà lãng phí tiền bạc của hoàng gia nên đối xử tệ với bà, rồi đuổi bà ra khỏi hoàng cung. Những người bạn của chồng bà trở về từ đoàn Thập tự quân giúp bà được phục hồi cương vị, vì con trai bà là người thừa kế hợp pháp là kế vị phụ vương.
Năm 1228, bà vào Dòng Ba Phanxicô, dành thời gian chăm sóc người nghèo trong bệnh viện mà bà sáng lập để dâng kính thánh Phanxicô. Sức khỏe sa sút, bà qua đời trước ngày sinh nhật thứ 24 của bà vào năm 1231. Vì bà quá nổi tiếng thánh thiện, chỉ 4 năm sau bà được phong thánh.
18/11 – Cung hiến Đền thờ thánh Phêrô và Phaolô
Đền thờ thánh Phêrô có thể nổi tiếng nhất trong các nhà thờ. Đồi Vatican là một nghĩa trang mà các tín hữu tụ họp nhau cầu nguyện tại mộ thánh Phêrô. Năm 319, Constantine cho xây trên đồi đó một thánh đường tồn tại hơn 1.000 năm sau, nhưng cũng bị sụp đổ dù tu sửa nhiều lần. Năm 1506, ĐGH Julius II cho xây dựng lại, nhưng chưa hoàn thành và tồn tại 2 thế kỷ.
Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành (St. Paul’s Outside the Walls) ở gần Abaazia delle Tre Fontane, nơi thánh Phaolô bị chém đầu. Đó là nhà thờ lớn nhất Rôma cho đến khi Đền thờ Thánh Phêrô được tái thiết. Tòa nhà được tái xây dựng sau khi bị cháy năm 1823. Đền thờ đầu tiên cũng do Constantine xây dựng.
19/11 – Thánh Agnes Assisi, Trinh nữ (1197-1253)
Thánh Agnes là nữ tu đầu tiên của Dòng Thánh Clara. Agnes rời nhà 2 tuần, gia đình bắt ép bà về nhà, tìm cách lôi bà ra khỏi tu viện, nhưng cơ thể bà trở nên nặng đến nỗi không ai lôi nổi bà. Người chú Monaldo đánh bà nhưng cũng không thể lay chuyển ý bà. Mọi người đành để cho Agnes sống bình an với Clara.
Năm 1221, một nhóm nữ tu Biển Đức ở Monticelli (gần Florence) xin gia nhập Dòng Thánh Clara khó nghèo. Thánh Clara truyền cho nữ tu Agnes làm nẹ bề trên tu viện đó. Thánh Agnes đã viết một lá thư nói rất buồn vì nhớ thánh Clara và các chị em ở San Damiano. Sau khi lập Dòng Thánh Clara khó nghèo ở Bắc Ý, thánh Agnes được gọi trở lại San Damiano năm 1253 khi thánh Clara trong cơn hấp hối. Thánh Agnes qua đời sau thánh Clara 3 tháng, và được phong thánh năm 1753.
20/11 – Thánh Rose Philippine Duchesne (1769-1852)
Bà sinh tại Grenoble, Pháp, trong một gia đình mới giàu. Bà có ý chí mạnh mẽ và cương trực. Bà vào dòng lúc 19 tuổi mà không cho cha mẹ biết. Khi cuộc Cách mạng Pháp bùng nổ, tu viện bị đóng cửa, bà bắt đầu đi chăm sóc người nghèo và bệnh nhân, mở trường học cho ác trẻ em đường phố và liều mình giúp đở các linh mục đang phải lẩn trốn.
Khi tình hình lắng xuống, bà thuê một tu viện cũ và cố gắng khôi phục đời sống tu trì. Chỉ còn lại 4 nữ tu. Họ quy tụ thành Dòng Thánh Tâm, với bề trên trẻ là thánh Madeleine Sophie Barat. Một thời gian ngắn, Philippine làm bề trên và giáo tập, nhưng nữ tu này nhiều tham vọng. Vì nghe nói việc truyền giáo ở Louisiana từ hồi nhỏ, bà đi Mỹ và làm việc với dân Ấn Độ. Lúc 49 tuổi, bà ngũi đây là công việc của bà. Với 4 nữ tu, bà vượt biển suốt 11 tuần để tới New Orleans, và đi 7 tuần vượt sông Mississippi nữa để tới St. Louis. Lúc đó bà cảm thấy thất vọng. Đức giám mục không có chỗ cho họ ở nên sai bà tới một ngôi làng hẻo lánh là St. Charles, Missouri. Bà mở trường miễn phí cho nữ sinh ở phía Tây sông Mississippi.
Lúc 72 tuổi, sức khỏe bà suy yếu. Người ta gọi bà bằng biệt danh “Bà Luôn Cầu Nguyện”. Khi người khác dạy học, bà cầu nguyện. Bà qua đời lúc 83 tuổi.
21/11 – Đức Mẹ dâng mình
Lễ Đức Mẹ dâng mình được mừng kính tại Giêrusalem từ thế kỷ VI. Một nhà thờ được xây dựng tại đây với tước hiệu Đức Mẹ dâng mình. GGhh Đông phương quan tâm nhiều đến lễ này, nhưng mãi đến thế kỷ XI Giáo hội Tây phương mới mừng kính lễ này. Thế kỷ XVI, dù lễ này không có trong lịch phụng vụ nhưng đã được phổ biến trong Giáo hội hoàn vũ.
Cũng như sinh nhật Đức Mẹ, việc Đức Mẹ dâng mình trong đền thờ không thấy kể lại rõ ràng. Trong tài liệu được coi là không có trong lịch sử là Protoevangelium (*) của Giacôbê cho chúng ta biết rằng bà Anna và ông Gioakim đã dâng bé gái Maria cho Thiên Chúa trong đền thờ khi bé Maria được 3 tuổi. Điều này để thực hiện lời hứa với Thiên Chúa khi bà Anna còn son sẻ.
Dù không được chứng minh trong lịch sử, việc dâng mình của Đức Mẹ vẫn có một mục đích thần học quan trọng, tiếp tục ảnh hưởng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm và lễ Giáng sinh. Điều đó nhấn mạnh sự thánh thiện nơi Đức Mẹ từ khi mới sinh ra tới cả cuộc đời Đức Mẹ.
-------------------------
(*) Protoevangelium nghĩa là “Phúc âm đầu tiên”, tên mới của ngụy kinh (apocryphal Gospel), được biết đến là Sách Giacôbê (Book of James). Có thể có nguồn gốc từ tà thuyết Docetist (thế kỷ XIX), cho thấy lòng sùng kính Đức Mẹ từ thế kỷ II. Protoevangelium là ngụy kinh cổ nhất được dùng đối với lời hứa của Đấng Cứu Thế sau khi nguyên tổ phạm tội. Nói về con rắn, Thiên Chúa nói: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3:15). Theo truyền thống, người phụ nữ và con cháu của bà được hiểu là Đức Mẹ và Chúa Con.
22/11 – Thánh Cecilia, Trinh nữ Tử đạo (thế kỷ III)
Dù thánh Cecilia là một trong các vị tử đạo nổi tiếng của Rôma, nhưng các câu chuyện về bà vẫn không được kể lại chính xác. Thời kỳ đầu không thấy dấu hiêu nào cho thấy bà được tôn kính. Một câu được khắc hồi cuối thế kỷ IV nói đến một nhà thờ mang tên bà, và lễ mừng kính bà có từ năm 545.
Theo truyền thuyết, Cecilia là Kitô hữu thuộc dòng dõi quý tộc đính hôn với một người Rôma tên là Valerian. Nhờ ảnh hưởng từ bà, Valerian đã trở lại đạo và chịu tử đạo với người anh em của ông. Truyền thuyết về cái chết của thánh Cecilia nói rằng sau khi bị chém vào cổ 3 lần, bà vẫn sống thêm 3 ngày, và bà xin Đức giáo hoàng lấy nhà của bà làm nhà thờ. Từ thời Cải cách, bà thường được vẽ chân dung với cây đàn viola hoặc đàn organ.
23/11 – Chân phước Miguel Agustín Pro, Linh mục Tử đạo (1891-1927)
¡Viva Cristo Rey! (Vạn tuế Kitô Vua) là lời cuối cùng mà LM Pro nói trước khi bị hành quyết vì “tội” là linh mục Công giáo.
Ngài sinh trong một gia đình giàu có và sùng đạo ở Guadalupe de Zacatecas, vào Dòng Tên năm 1911, nhưng 3 năm sau phải trốn sang Granada, Tây Ban Nha, vì Công giáo bị bách hại ở Mexico. Ngài thụ phong linh mục tại Bỉ năm 1925.
Ngài liền trở lại Mexico và phục vụ Giáo hội “thầm lặng”. Ngài bí mật dâng lễ và trao Thánh Thể cho những nhóm người Công giáo.
Ngài và em trai Roberto bị bắt vì tội muốn ám sát tổng thồng Mexico. Roberto được tha nhưng chân phước Miguel bị kết án và bị giết ngày 23-11-1927. Đám tang của ngài trở thành đoàn biểu tình vì đức tin. Ngài được phong chân phước năm 1988.
24/11 – Các thánh tử đạo Việt Nam
Thánh Anrê Phú Yên là một trong hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam trong những năm từ 1820 tới 1862. Có 117 vị được phong chân phước vào 4 dịp trong những năm từ 1900 tới 1951. Và chân phước GH Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị này lên bậc hiển thánh.
Công giáo đã đến Việt Nam qua người Bồ Đào Nha, lúc đó còn tách là Đàng trong v2 Đàng ngoài). Các linh mục Dòng Tên đã lập Hội truyền giáo đầu tiên tại Đà Nẵng năm 1615. các vị tử đạo đã bị nhà vua bắt bội giáo bằng cách đạp lên Thánh giá, nhưng tất cả đều son sắt niềm tin, không tham sống mà chối bỏ Chúa.
Có 3 đợt bách hại dữ dội hồi thế kỷ XIX. Trong 60 năm kể từ năm 1820, có khoảng từ 100.000 tới 300.000 người Công giáo bị giết hoặc chịu đau khổ. Các nhà truyền giáo ngoại quốc tử đạo trong đợt đầu gồm các linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (Paris Mission Society), các linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha và các thành viên Dòng Ba Đa Minh. Năm 1847, cuộc bách hại lải nổ ra khi nhà vua nghi ngờ các nhà truyền giáo ngoại quốc và các tín hữu Việt Nam Vietnamese muốn nổi loạn.
Các vị tử đạo cuối cùng là 17 giáo dân, có một vị mới 9 tuổi, bị hành quyết năm 1862. Cũng chính năm này có hiệp ước tự do tôn giáo giữa Pháp quốc và Việt Nam, nhưng vẫn chưa hết bách hại. Năm 1954, có hơn 1.500.000 người Công giáo miền Bắc – chiếm 7% dân số hồi đó. Phật giáo chiếm khoảng 60%. Cuộc bách hại dai dẳng khiến 670.000 người Công giáo phải rời bỏ quê hương xứ sở để vào miền Nam. Năm 1964, miền Bắc vẫn còn 833.000 người Công giáo nhưng nhiều người phải bị tù đày. Tại miền Nam, người Công giáo được tự do tôn giáo trong những thập niên đầu của những thế kỷ qua, họ sống như những người tỵ nạn. Trong thời chiến tranh Việt Nam, người Công giáo lại bị bách hại ở miền Bắc và lại phải chuyển vào miền Nam rất đông.
25/11 – Thánh Clêmentê I, Giáo hoàng Tử đạo (qua đời năm 100)
Theo truyền thống, thánh Clêmentê được chính thánh Phêrô phong chức linh mục. Theo một số tác giả, thánh GH Clêmentê là người kế vị thánh GH tiên khởi Phêrô, nhưng một số học giả hiện đại cho rằng thánh Clêmentê là giáo hoàng thứ 3.
Ngài được thánh Phaolô nhắc tới trong thư gởi giáo đoàn Philipphê, và ngài có lẽ là người Philipphê. Các học giả hiện đại cho rằng không biết thánh Clêmentê là người Do Thái hay dân ngoại. Một số học giả cho rằng ngài là người Do Thái vì lá thư nổi tiếng của ngài thấm sâu Cựu ước.
Có học giả cho rằng ngài là người La Mã, tử đạo ngoài thành Rôma. Trong “Công vụ Tử đạo” (Acts of the Martyrs, được viết hồi thế kỷ IV) có nhiều chi tiết thú vị. Thánh Clêmentê bị hoàng đế Trajan bắt đi đày ở Chersonese, Crimea hiện đại. Tại đây ngài tích cực giúp các tù nhân phải làm ở mỏ nên ngài bị kết án tử. Thi hài ngài bị ném xuống biển với chiếc neo gắn vào cổ. Sau đó người ta tìm thấy thi hài ngài và an táng trong mộ cẩm thạch.
Không biết có đúng xương ngài hay không, nhưng thánh tích ngài có giá trị trong thư gởi giáo đoàn Corintô. Các học giả vẫn đồng ý như vậy. Thư này được viết khi một trong các tông đồ còn sống, lá thư của thánh Clêmentê là tài liệu quan trọng đầu tiên hồi đó.
25/11 – Thánh Columban, Viện phụ (543?-615)
Ngài là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại của Ai-len tại Âu châu. Thời trẻ, ngài khổ sở vì bị cám dỗ về xác thịt, ngài tìm lời khuyên của một phụ nữ đã ẩn tu nhiều năm. Ngài thấy trong câu trả lời của bà là tiếng gọi rời bỏ thế gian. Ngài đến gặp một tu sĩ ở một hòn đảo tại Lough Erne.
Sau nhiều năm sống ẩn dật và cầu nguyện, ngài đến Gaul cùng với 12 nhà truyền giáo khác. Ngài được nhiều người kính trọng vì ngài sống kỷ luật nghiêm khắc, truyền giáo, và bác ái. Ngài thành lập vài tu viện ở Âu châu, các tu viện này đều trở thành các trung tâm tôn giáo và văn hóa.
Cũng như các thánh khác, ngài cũng bị chống đối. Cuối cùng ngài phải kêu gọi giáo hoàng chống lại những lời than phiền của các giám mục ở Frank, để được xác minh sự chính thống và phê chuẩn các thói quen của người Ai-len. Ngài khiển trách nhà vua về cách sống dâm loạn của ông vì ông đã kết hôn. Vì điều này đe dọa quyền lực của mẫu hậu, thánh Columban được lệnh về Ai-len. Tàu của ngài gặp bão, ngài tiếp tục làm việc tại Âu châu, cuối cùng ngài đến Ý, tại đây ngài được vua Lombards ủng hộ. Trong những năm cuối đời, ngài thành lập tu viện Bobbio nổi tiếng, và ngài qua đời tại tu viện này. Các tác phẩm của ngài có một chuyên luận về sám hối và chống tà thuyết Arian (*), các bài giảng, thi ca và tu luật.
-------------------------
(*) Arianism: thuyết của Arius, thế kỷ IV, cho rằng chỉ có Thiên Chúa là bất biến và tự hữu, nhưng Ngôi Con không là Thiên Chúa mà chỉ là phàm nhân. Thuyết này từ chối thiên tính của Chúa Giêsu. Công đồng Nicaea (AD 325) đã kết án Arius và tuyên bố “Ngôi Con đồng bản thể với Đức Chúa Cha”. Thuyết Arian được nhiều người bảo vệ tiếp 50 năm sau, nhưng cuối cùng cũng sụp đổ khi các hoàng đế Kitô giáo của Rome Gratian và Theodosius lên ngôi. Công đồng Constantinople đầu tiên (năm 381) phê chuẩn Tín điều của Công đồng Nicê và cấm thuyết Arian. Tà thuyết này vẫn tiếp tục trong các bộ lạc ở Đức suốt thế kỷ VII, và các niềm tin tương tự được duy trì đến ngày nay bởi tổ chức Nhân chứng của Giavê (Jehovah's Witnesses) và bởi một số người theo thuyết Nhất Vi Luận (Unitarianism), tương tự Tam Vị Nhất Thể, tức là Một Chúa Ba Ngôi.
26/11 – Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)
Theo truyền thuyết, thánh Catarina trở lại Kitô giáo sau khi thấy một thị kiến. Lúc 18 tuổi, bà đã tranh luận với 50 triết gia ngoại giáo. Ngạc nhiên trước sự không ngoan và kỹ năng tranh luận của bà, họ đã gia nhập Kitô giáo – kể cả khoảng 200 binh sĩ và các thành viên của hoàng gia. Tất cả họ đều tử đạo.
Bị kết án tử và bị treo vào bánh xe, rồi bà bị chém đầu. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.
Lòng sùng kính bà phát triển thành Thập tự quân. Bà được coi là bổn mạng của học sinh, sinh viên, giáo viên, quản thủ thư viện và luật sư. Bà là một trong 14 người giúp việc tông đồ, rất được sùng kính ở Đức quốc và Hungary.
27/11 – Thánh Francesco Antonio Fasani, Linh mục (1681-1742)
Ngài sinh tại Lucera (Đông Nam Ý), vào Dòng Phanxicô năm 1695. Ssau khi thụ phong linh mục được 10 năm, ngài dạy triết học cho các tu sĩ trẻ, làm người gác cổng nhà dòng và được bầu làm giám tỉnh. Khi hết nhiệm kỳ, ngài làm giáo tập và linh hướng.
Ngài có lòng yêu thương, đạo đức và đền tội. Khi nghe án phong thánh, một nhân chứng làm chứng về sự thánh thiện của ngài: “Cách ngài giảng rất thân thiện, đầy tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân, đầy Chúa Thánh Thần, ngài nói và làm như Kinh thánh, đánh động lòng người và khiến người nghe ăn năn đền tội”.
Ngài luôn tỏ ra là người bạn trung thành của người nghèo, không bao giờ lưỡng lự giúp đỡ những gì người khác cần. Khi ngài qua đời, nhiều người than khóc ngài: “Thánh nhân đã qua đời! Thánh nhân đã qua đời!”. Ngài được phong thánh năm 1986.
28/11 – Thánh James Marche, Linh mục (1394-1476)
Ngài sinh tại Marche, thuộc Ancona, Trung Ý, dọc theo biển Adriatic. Sau khi đạt học vị tiến sĩ về giáo luật và dân luật tại ĐH Perugia, ngài vào Dòng Phanxicô và sống khổ hạnh. Ngài ăn chay 9 tháng trong năm, mỗi đêm chỉ ngủ 3 giờ. Thánh Bernardine Siena nói ngài đền tội vừa phải thôi.
Ngài học thần học với thánh Gioan Capistranô, thụ phong linh mục năm 1420, đi rao giảng khắp nước Ý và ở 13 nước thuộc Trung Âu và Đông Âu. Ước tính ngài đã làm cho khoảng 250.000 người trở lại đạo và giúp phổ biến lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Lời ngài giảng làm cho nhiều người Công giáo canh tân đời sống và nhiều thanh niên gia nhập Dòng Phanxicô.
Cùng với các thánh Gioan Capistranô, Albertô Sarteanô and Bernardine Siena, thánh James được coi là một trong 4 cột trụ của Phong trào Observant của Dòng Phanxicô (theo đùng nghi lễ). Các tu sĩ này nổi tiếng giảng hay.
Để đấu tranh chống ăn lời cao, thánh James thành lập Hội montes pietatis (nghĩa đen là Núi Bác ái) – một tổ chức phi lợi nhuận cho vay tiền và cầm đồ với mức lời thấp. Ai cũng phấn khởi với việc ngài làm. Khi đối mặt ngài, 2 kẻ ám sát đã không dám giết ngài. Ngài được phong thánh năm 1726.
29/11 – Tôi tớ Chúa Gioan Monte Corvinô, Giám mục (1247-1328)
Ngài rao giảng Phúc âm cho người Mông cổ, rồi tới Trung quốc vào khoảng thời gian Marco Polo trở lại.
Ngài đã từng là một binh sĩ, thẩm phán và bác sĩ, rồi đi tu. Năm 1278, ngài tới Tabriz, Persia (Iran ngày nay), ngài có tiếng giảng hay và dạy giỏi. Năm 1291, ngài rời Tabriz với tư cách là đại diện của ĐGH Nicholas IV tới triều đình của Kublai Khan. Ngài và một thương gia người Ý tới Trung quốc năm 1294, khi Kublai Khan đã băng hà.
Nhiều Kitô giáo phản đối giáo huấn của Công đồng Êphêsô về Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hoán cải một số người và một số người Trung quốc, kể cả Hoàng tử George của lảnh địa Tenduk, thuộc Tây Bắc của Bắc Kinh. Hoàng tử George đã đặt tên con trai mình theo tên tu sĩ Gioan Monte Corvinô.
Ngài thành lập cơ quan chính ở Khanbalik (Bắc Kinh ngày nay), tại đây ngài đã xây 2 nhà thờ. Năm 1304, ngài dịch các Thánh vịnh và Tân ước sang tiếng Tatar.
Trả lời 2 lá thư của ngài, ĐGH Clêmentô V đã bổ nhiệm ngài làm TGM GP Khanbalik năm 1307, và tấn phong 7 tu sĩ khác làm giám mục các giáo phận khác. Một vị ở lại Âu châu, 3 vị qua đời trên đường tới Trung quốc, 3 vị khác và các tu sĩ theo bước họ tới Trung quốc năm 1308.
Khi ngài qua đời, nhiều người Kitô giáo và ngoài Kitô giáo đều thương tiếc. Mộ ngài trở nên nơi hành hương. Năm 1368, Kitô giáo bị bách hại khi người Mông cổ bị trục xuất khỏi Trung quốc, và đời nhà Minh bắt đầu.
30/11 – Thánh Anrê, Tông đồ
Khi Chúa Giêsu xuất hiện, thánh Gioan giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Thánh Anrê và một tông đồ nữa đã theo Chúa Giêsu. “Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1:38-39).
Phúc âm ít nhắc đến thánh Anrê. “Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (x. Ga 6:8-9). “Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê. Ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu” (x. Ga 12:20-22).
Truyền thuyết nói rằng thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở nơi mà ngày nay là Hy Lạp và Thổ NHĩ Kỳ, rồi bị đóng đinh theo hình chữ X tại Patras, thuộc Achaea, Hy Lạp. Thánh Anrê là một trong các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ngài là em thánh Phêrô, sinh tại Bethsaida gần biển Galilê. Hai anh em làm nghề đánh cá. Khi ấy, Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simôn, cũng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4:18-20).
Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, thánh Anrê rao giảng Phúc âm ở Tiểu Á, ở Scythia và ở Kiev.
Thánh tích của ngài là một ngón tay, một mảnh xương sọ và vài mảnh thập giá. Những thứ này được giữ tại nhà thờ thánh Anrê ở Patras.
Thánh Anrê là thánh bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Người Tô Cách Lan mừng lễ thánh Anrê vào ngày 30-11. Lá cờ của nước Tô Cách Lan là Thập giá của thánh Anrê.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org) |
|