|
16/12 – Chân phước Honoratus Kozminski (1825-1916)
Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng Phanxicô. Sau 4 năm, ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp chân phước Maria Angela Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.
Ngài làm người gác cổng ở tu viện Warsaw năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh hướng và giải tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.
Cuộc nổi dậy chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn áp các nhà dòng ở Ba Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi Warsaw và phải đến sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập 26 dòng nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung, họ hoạt động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày nay.
Các tài liệu viết của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp các thư, có tới 52 tác phẩm về thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, về lịch sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội dòng ngài đã thành lập.
Năm 1906, nhiều giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này dưới quyền mình (sic!), nhưng chân phước Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc giục các hội dòng vẫn vâng lời giáo hội.
Một người đương thời nói: “Ngài luôn bước đi với Chúa”. Năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng đại diện (Commissary General) Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được chân phước GH Gioan Phaolô II phong chân phước năm 1988.
17/12 – Thánh Ladarô
Ladarô là bạn của Chúa Giêsu, em trai của Matta và Maria, là người được Chúa Giêsu quý mến và được Ngài cho sống lại sau khi đã chết ba ngày.
Người ta cho rằng ngài đã viết lại những gì ngài thấy ở kiếp sau khi ngài được Chúa Giêsu cho sống lại. Một số người nói ngài theo thánh Phêrô tới Syria. Có người nói ngài và 2 người chị đến sống ở Cyprus. Tại đây, ngài qua đời lần thứ hai sau khi làm giám mục 30 năm.
Một nhà thờ được xây dựng dâng kính ngài ở Constantinople và một ít thánh tích của ngài được chuyển về đó năm 890. Truyền thuyết Tây phương nói ngài tới Gaul, làm giám mục ở Marseilles, chịu tử đạo sau khi hoán cải một số người và ngài được an táng trong một hang động. Di hài ngài được chuyển về Autun năm 1146.
Khoảng năm 390, một phụ nữ hành hương tên Etheria nói chuyện với đoàn người hành hương vào thứ Bảy trước lễ Lá tại ngôi mộ mà thánh Ladarô sống lại. Ở Tây phương, Chúa nhật lễ Lá được gọi là Dominica de Lazaro. Thánh Augustinô cho chúng ta biết rằng ở Phi châu, Phúc âm về việc sống lại của Ladarô được đọc trong thánh lễ Chúa nhật lễ Lá.
18/12 – Chân phước Antôn Grassi, Linh mục (1592-1671)
Cha ngài qua đời khi ngài mới 10 tuổi, nhưng ngài thừa hưởng lòng súng kính Đức Mẹ Loreto từ người cha. Hồi nhỏ, ngài thường tới nhà thờ cầu nguyện và vào dòng lúc 17 tuổi.
Khi là sinh viên ngành mỹ nghệ, ngài có tiếng trong dòng là “tự điển sống” vì hiểu Kinh thánh và thần học rất nhanh. Một thời gian ngài khổ sở vì lưỡng lự, nhưng ngài thoát khỏi từ lúc ngài dâng thánh lễ đầu tiên. Từ đó, ngài sống bình an.
Năm 1621, lúc 29 tuổi, ngài bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ Đức Mẹ Loreto, ai cũng nghĩ ngài không thể sống nổi. Nhưng vài ngày sau, ngài hồi phục và nhận ra rằng ngài hết bị chứng khó tiêu. Người ta đem quần áo bị cháy sém của ngài dâng cho Đức Mẹ Loreto để tạ ơn. Quan trọng là ngài cảm thấy cuộc đời mình hoàn toàn thuộc về Chúa. Năm nào ngài cũng hành hương tới Loreto để tạ ơn Đức Mẹ.
Ngài chú ý lắng nghe hối nhân khi ngài giải tội, nói vài lời và khuyên làm việc đền tội, ngài nói bằng chính tiếng nói của lương tâm. Năm 1635, ngài được bầu làm bề trên Dòng Fermo Oratory. Nhiệm kỳ 3 năm, nhưng lần nào ngài cũng tái đắc cử cho đến khi ngài qua đời. Ngài là người trầm lặng, dịu dàng, không hề nghiêm khắc. Ngài luôn khuyên mọi người sống như vậy.
Khi lớn tuổi, ngài có khả năng biết về tương lai, ngài thường dùng khả năng này để cảnh báo hoặc khuyên nhủ người khác. Nhưng ngài cũng gặp thử thách. Ngài khó giảng vì bị mất mấy cái răng, rồi ngài không giải tội nữa vì yếu sức, chỉ quanh quẩn trong phòng. Đức TGM hàng ngày đến trao Mình Thánh cho ngài. Một trong những hành động cuối cùng của ngài là hòa giải được 2 người đối lập nhau dữ dội.
19/20 – Chân phước Urbanô V, Giáo hoàng (1310-1370)
Ngài đắc cử giáo hội năm 1362. Khi các hồng y không thể tìm được người cho vị trí quan trọng này, họ quay ra chú ý một “người lạ”: Thánh thiện và đáng kính.
ĐGH Urban V đã chứng tỏ họ chọn lựa đúng. Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức và là nhà giáo luật, sống tâm linh và thông minh. Ngài khiêm nhường và giản dị, điều đó khiến ngài luôn được nhiều người quý mến. Ngài cương quyết cải cách Giáo hội và các dòng tu. Triều đại GH của ngài kéo dài 8 năm, nhưng có một thời gian ngài phải ở Avignon (Pháp). Hoàn cảnh khó khăn nên ngài không đạt được những mục đích cao nhất trong việc tái nối kết Giáo hội Đông phương và Tây phương.
Với cương vị giáo hội, ngài tiếp tục sống tu luật Biển Đức. Trước khi qua đời năm 1370, ngài xin được rời dinh thự giáo hoàng về sống với người em trai để có thể từ biệt những người bình thường mà ngài đã giúp đỡ.
20/12 – Thánh Đa Minh Silos, Linh mục (khoảng năm 1000-1073)
Ngài không là người sáng lập Dòng Đa Minh, nhưng có chuyện liên quan kỳ lạ.
Ngài sinh tại Tây Ban Nha khoảng năm 1000 trong một gia đình nông dân. Hồi nhỏ ngài phải lao động ngoài đồng ruộng, nên ngài sống âm thầm. Ngài tu Dòng Biển Đức và thụ phong linh mục, rồi giữ nhiều chức vụ lãnh đạo. Sau khi tranh chấp với nhà vua về tài sản, ngài và 2 tu sĩ khác bị đi đày. Rồi họ lập dòng mới. Dưới sự lãnh đạo của ngài, dòng này trở nên nổi tiếng tại Tây Ban Nha, nhiều người được chữa lành.
Khoảng 100 năm sau khi ngài qua đời, một phụ nữ trẻ hành hương tới mộ ngài. Ngài đã hiện ra với phụ nữ này và đoan chắc chị sẽ sinh con trai. Phụ nữ này tên là Joan Aza, con trai của phụ nữ này sinh ra và trưởng thành, thanh niên này tên là Đa Minh (Dominic) – người sáng lập Dòng Đa Minh như chúng ta thấy ngày nay.
Sau nhiều năm, di hài thánh Đa Minh Silos được đưa về hoàng cung bất kỳ lần nào Nữ hoàng Tây Ban Nha trở dạ sinh con. Việc này kết thúc năm 1931.
21/12 – Thánh Phêrô Canisiô, Linh mục Tiến sĩ (1521-1597)
Ngài là người đa tài, sống gương mẫu và phát triển tài năng theo Kinh thánh vì Chúa. Ngài là nhân vật quan trọng trong thời Cải cách ở Đức, giữ vai trò chính và thường được gọi là “vị tông đồ thứ hai của Đức” so với thánh Boniface.
Lúc 19 tuổi, ngài có bằng đại học của ĐH Cologne. Không lâu sau ngài gặp Peter Faber, đệ tử đầu tiên của thánh Inhaxiô Loyola, và cuộc đời ngài đã thay đổi từ khi vào Dòng Tên.
Ngài thụ phong linh mục năm 1546, và nổi tiếng với những bài viết về thánh Cyril Alexandria và thánh Leo Cả. Ngoài ra ngài còn thích làm việc tông đồ, thăm viếng các tù nhân và các bệnh nhân.
Năm 1547, ngài dự vài khóa họp Công đồng Trentô. Ngài dạy tại vài trường đại học, cùng thành lập nhiều đại học và chủng viện. Ngài viết sách giáo lý giải thích về đức tin Công giáo theo cách mà người thường cóa thể hiểu được – thời đó rất cần cách đó.
Ngài có tiếng về giảng thuyết, và khéo hòa giải các giáo phái. Ngài còn viết những lá thư phê bình các vị lãnh đạo Giáo hội – nhưng có cách nói yêu thương và cảm thông. Lúc 70 tuổi, ngài bị đột quỵ, nhưng vẫn rao giảng và viết lách cho tới khi qua đời tại Nijmegen (Ba Lan) ngày 21-12-1597.
22/12 – Chân phước Jacopone da Todi (qua đời năm 1306)
Ngài sinh trong gia đình Benedetti quý tộc ở TP Todi, Bắc Ý. Ngài là luật sư và kết hôn với Vanna, một phụ nữ đạo hạnh và đại lượng. Vanna đã giúp chồng ăn năn đền tội. Có lần Vanna năn nỉ Jacopone tham gia thi đấu công khai. Vanna ngồi chung với các phụ nữ quý tộc khác và khán dài bị sụp. Vanna bị chết. Jacopone buồn lắm, nhất là khi biết vợ đeo thắt lưng để đền tội cho chồng. Từ đó, Jacopone quyết thay đổi cuộc đời.
Ngài phân phát tài sản cho người nghèo và vào Dòng Ba Phanxicô, ăn năn đền tội nghiêm ngặt. Ngài viết nhiều bài thánh ca (hymn) nổi tiếng bằng phương ngữ.
Lúc 68 tuổi, ngài bị vạ tuyệt thông và bị tù, dù ngài biết mình vô tội. Mãi 5 năm sau, thời ĐGH Bênêđictô XI, ngài mới được giải vạ. Ngài coi cảnh tù đày như việc đền tội. Trong thời gian đó ngài viết bài thánh ca Stabat Mater bằng tiếng Latin nổi tiếng.
Ngày 24-12-1306, ngài cảm thấy cái chết gần kề. Lúc đó ngài ở trong Dòng Thánh Clara khó nghèo với một người bạn là chân phước Gioan La Verna. Cũng như thánh Phanxicô, chân phước Jacopone chào đón “Chị Chết” bằng một bài thánh ca nổi tiếng của ngài khi người ta đang dự thánh lễ nửa đêm Giáng sinh.
23/12 – Thánh Gioan Kanty, Linh mục (1390?-1473)
Sau khi học xong đại học ở Kraków, Ba Lan, ngài thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Có nhiều người ganh ghét nên ngài phải đi giữ xứ ở Olkusz. Ngài sống khiêm nhường và cố gắng, nhưng vẫn không được lòng giáo dân. Nhưng cuối cùng ngài đã khiếnhọ tâm phục khẩu phục. Sau một thời gian, ngài trở lại Kraków và dạy Kinh thánh cho đến hết đời.
Ngài thương người nghèo, ngài dành tiền bạc và thời gian cho họ. Ngài ít ngủ, nằm trên nền nhà, ăn ít, không ăn thịt. Ngài hành hương tới Giêrusalem và Rôma. Được cảnh báo về sức khỏe nhưng ngài vẫn sống khổ hạnh.
24/12 – Giáng sinh tại Greccio
Theo truyền thuyết, chính thánh Phanxicô Assisi đã làm hang đá đầu tiên tại Greccio, thuộc Trung Ý, năm 1223.
Thánh Phanxicô nhớ lần tời Belem vài năm trước đó, nên ngài quyết định làm hang đá, đó là hang Greccio. Ngài tìm một đứa bé, một con bò và một con lừa đứng gần bên máng cỏ. Người ta nghe nói và kéo đến, người thì cầm đuốc, người thì cầm nến. Chính thánh Phanxicô giảng trong thánh lễ đêm đó.
Thomas of Celano, người viết tiểu sử thánh Phanxicô, nói rằng thánh Phanxicô “đứng trước máng cỏ… với lòng yêu thương và niềm hạnh phúc vô cùng…” Với thánh Phanxicô, mừng lễ giản dị là nhớ lại cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng cứu độ đã làm người nghèo vì chúng ta, một Giêsu làm người thực sự.
Đêm nay, khi cầu nguyện bên hang đá, chúng ta hãy cảm tạ Lòng Thương Xót của Chúa và hãy nhớ đến những người nghèo và những người đau khổ trên khắp thế giới…
25/12 – Đại lễ Giáng sinh
Hôm nay Giáo hội tập trung vào Vương Nhi Giêsu, Thiên Chúa làm người, để chúng ta được hạnh phúc, bình an và hy vọng. Bên Bé Giêsu có Cha Mẹ Ngài là Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, có cả những mục đồng đại diện cho giới lao động nghèo khó.
Ngày Con Chúa giáng trần làm người, đất trời được giao hòa, nhân phẩm nhân loại được phục hồi. Thật hạnh phúc biết bao khi những tội nhân chúng ta được trắng án và được trở thành con cái của Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm đức tin. Hãy mở rộng lòng yêu thương để đón tiếp nhau chân thành:
Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
26/12 – Thánh Stêphanô, Tử đạo tiên khởi (qua đời năm 36 ?)
Những gì chúng ta biết về thánh Stêphanô được tìm thấy trong sách Công vụ Tông đồ, chương 6 và 7, đủ để chúng ta biết ngài là con người thế nào: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”. Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicanô, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Ông Stêphanô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân. Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alêxanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông.” Bấy giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: “Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông Môsê và Thiên Chúa”. Họ sách động dân và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người Nadarét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Môsê đã truyền lại cho chúng ta”. Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ” (Cv 6:1-5, 8-15).
Chỗ khác, sách Công vụ cho biết: “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô. Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:55-60).
27/12 – Thánh sử Gioan, Tông đồ
Thiên Chúa kêu gọi, con người đáp lại. Ơn gọi của thánh Gioan và người anh Giacôbê được mô tả sơ sài trong Phúc âm, cùng với thánh Phêrô và người anh Anrê: “Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người” (Mt 4:21-22).
Thánh Gioan gọi mình là “người môn đệ được Chúa yêu” (x. Ga 13:23; 19:26; 20:2), the one who reclined next to Jesus at the Last Supper, and the one to whom he gave the exquisite honor, as he stood beneath the cross, of caring for his mother. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu: “Thưa Mẹ, đây là con của Mẹ”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19:26-27).
Theo chiều sâu Phúc âm, thánh Gioan thường được coi là “chim đại bàng của thần học”, bay trên vùng cao mà các thánh sử khác không có. Chúa Giêsu gọi hai anh em thánh Gioan là “con của sấm sét”. Khó giải thích chính xác nhưng có 2 gợi ý.
Thứ nhất, theo thánh Matthêu, mẹ của các ngài xin cho 2 con ngồi bên phải và bên trái Chúa trong Vương quốc của Chúa Giêsu. “Đức Giêsu bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Họ đáp: “Thưa uống nổi”. Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được. Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:22-24, 27-28).
Lần khác, “Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem. Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Samari để chuẩn bị cho Người đến. Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông” (x. Lc 9:51-55).
Dịp lễ Phục sinh, Maria Mađalêna “đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ, rồi về báo cho các môn đệ”. Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó (Ga 20:2-6). Thánh Gioan “đã thấy và đã tin” (Ga 20:8).
Gioan và Phêrô bị bắt và bị tống ngục, “nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv 4:13).
Thánh Gioan đã viết Phúc âm “khác” nhất so với các Phúc âm nhất lãm, các thư và sách Khải huyền. Ngài đã thấy Chúa Giêsu vinh quang trong các biến cố cuộc đời. Trong Bữa Tiệc Ly, thánh Gioan còn được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu. Phúc âm theo thánh Gioan là vinh quang của Chúa Giêsu.
28/12 – Các thánh Anh hài
Hêrôđê là vua Giuđê, ông sợ người khác “đụng chạm” đến ngai vàng của mình. Ông là một chính khách bậc thầy và là một bạo chúa thâm độc. Ông đã giết vợ, giết người anh em và chồng của em gái.
Mt 2:1-18 kể chuyện này: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời. Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người”. Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Hêrôđê đã “nổi điên” và ra lệnh tàn sát hết các bé trai ở Bêlem từ 2 tuổi trở xuống”. Thật khủng khiếp, đúng như lời tiên báo của ngôn sứ Giêrêmia: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2:18).
29/12 – Thánh Thomas Becket, Giám mục (1118-1170)
Ngài là người mạnh mẽ, bị dao động một thời gian, nhưng rồi biết mình không thể theo điều xấu và ngài đã trở thành thánh tử đạo. Ngài là Tổng giám mục TGP Canterbury, bị giết trong nhà thờ chính tòa ngày 29-12-1170.
Khi còn làm giám mục phó TGP Canterbury, ngài được vua Henry II (bạn của ngài) chọn làm chưởng ấn Anh quốc lúc 36 tuổi. Khi vua Henry cảm thấy lợi thế nếu chọn ngài làm TGM Canterbury, ngài đã cảnh báo nhà vua không được xâm phạm Giáo hội. Khi ngài được tấn phong tổng giám mục năm 1162, ngài từ chức chưởng ấn và thay đổi cách sống!
Rắc rối bắt đầu. Vua Henry vẫn tiếm quyền Giáo hội và ra Hiến pháp Clarendon, không cho giáo sĩ trực tiếp với Rôma. Nhưng thánh Thomas Becket phản đối Hiến pháp, trốn sang Pháp và bị đi đày 7 năm. Khi trở về Anh quốc, ngài biết mình sẽ bị giết, vì ngài đã từ chối lệnh vua. Vua Henry đã hét lên: “Không ai có thể làm cho ta khỏi rắc rối vì tên giáo sĩ này sao?”. Và 4 hiệp sĩ đã giết ngài ngay trong nhà thờ chính tòa Canterbury. Ngài vẫn là thánh nhân anh hùng nêu gương cho thời đại của chúng ta.
30/12 – Thánh Egwin, Giám mục (qua đời khoảng năm 717)
Ngài là tu sĩ Dòng Biển Đức, được tấn phong giám mục GP Worcester, Anh quốc. Ngài nổi tiếng là yêu thương trẻ mồ côi và người góa bụa, luôn phân xử công bình. Tuy nhiên ngài không được lòng các giáo sĩ. Họ thấy ngài quá nghiêm khắc, còn ngài chỉ muốn cố gắng sửa sai những việc lạm dụng và ra quy luật thôi. Khi ngài tới Rôma trình bày trường hợp của ngài với ĐGH Constantine, ngài được xem xét và trắng án.
Trên đường trở về Anh quốc, ngài lập tu viện Evesham, nay là nhà dòng Biển Đức nổi tiếng từ thời Trung cổ. Nhà dòng này dâng kính Đức Maria.
Ngài qua đời tại nhà dòng này vào ngày 30-12. Sau đó, nhiều phép lạ được coi là nhờ sự can thiệp của ngài: Người mù được thấy, người điếc được nghe, người bệnh được khỏi.
31/12 – Thánh Sylvester I, Giáo hoàng (qua đời năm 335)
Nói đến vị giáo hoàng này, chúng ta nghĩ ngay tới sắc lệnh Milan, sự nổi bật của Giáo hội đối với các hầm mộ, các đại giáo đường như đền thờ Thánh Gioan Lateran, đền thờ Thánh Phêrô và các đền thờ khác, Công đồng Nicê và các sự kiện quan trọng khác. Nhưng đa số các sự kiện này được hoàng đế Constantine hoạch định hoặc tạo ra.
Rất nhiều truyền thuyết có về vị giáo hoàng này, ngài làm giáo hoàng vào thời điểm quan trọng nhất, nhưng rất ít điều trở thành lịch sử. Chúng ta biết chắc rằng triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 tới khi ngài qua đời năm 335. Đọc lịch sử, chúng ta chắc chắn rằng chỉ có con người mạnh mẽ và khôn ngoan mới có thể duy trì sự độc lập của Giáo hội trước hoàng đế Constantine. Nói chung, các giám mục vẫn trung thành với Giáo hội, và có những lúc phải xin lỗi ĐGH Sylvester I vì đảm trách các dự án quan trọng của Giáo hội khi thúc giục hoàng đế Constantine.
Thomas Aquinas TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
|
|