|
Thánh Phaolô và kinh nghiệm hình thành đời đi Đạo
Từ đầu, thánh Phaolô đã là người Do thái và mãi mãi ông cũng sẽ là người Do thái. Ông chưa bao giờ hồi hướng trở về với đạo giáo nào khác. Và, ông cũng chẳng bao giờ là người Công giáo theo đúng nghĩa, bởi Công giáo thời bấy giờ làm gì đã thành hình, sớm như thế. Có thể gọi ông là Kitô hữu -nếu muốn hiểu cụm từ này như danh xưng để chỉ những “kẻ theo Đấng Thiên Sai”- (tức cụm từ chỉ các kẻ tin vào Đức Giêsu). Cộng đoàn Antiôkia là một trong các cứ điểm mà thánh Phaolô từng hăng say làm việc nhiều hơn đâu hết. Quả thật, làm việc với cộng đoàn ở đây, thánh nhân cũng gặp nhiều trắc trở với giới lãnh đạo; nhưng cuối cùng, thánh nhân cũng đã tách ly, không còn làm việc ở đó nữa. Và, từ lúc đó, thánh nhân đã phải minh định lại từ ngữ nói về thuyết “Thiên Sai”, theo chân Chúa.
Thánh Phaolô chưa từng gặp mặt Đức Giêsu đến một lần, trong quá trình Chúa sống ở cõi trần. Thánh nhân có nghe nói về Ngài, phần lớn là qua lời thánh Phêrô, nên ông biết là Đức Giêsu đã chết và đã sống lại và Ngài sẽ lại quang lâm, cũng rất sớm; có lẽ vào thời thánh nhân còn tại thế. Thánh Phaolô thừa hiểu rằng: dân con Hội thánh khi nói về việc Chúa quang lâm ai cũng hiểu theo nghĩa đen, rất thực tế. Ông cũng biết, cộng đoàn của ông được lập ra là để quây quần hướng về Chúa và chờ đợi ngày Chúa quang lâm, thêm lần nữa. Các thánh thời tiên khởi nhìn toàn bộ cuộc sống của Đức Giêsu như kiểu mẫu rất xứng đáng, nên các ngài rất thông cảm cho nhân loại, vẫn chờ đợi xem con người rồi sẽ ra sao, về sau. Theo các thánh, thì Đức Giêsu là “A-đam Mới”. Là, “Con Người Mới” rất đáng kính phục. Thật ra, các thánh cũng ý thức được sự cần thiết phải kết hợp với Chúa hiện diện nơi các đấng theo cung cách cũng rất lạ. Các thánh được khai tâm về việc này, phần lớn là nhờ nghi thức thanh tẩy và tiệc lòng mến. Thông tin mà thánh Phaolô có được về chuyện này, là do từ người khác. Bởi lúc đầu, bản thân thánh Phaolô cũng không ưa thích các loại hình như thế. Vì thế nên, những điều được thánh-nhân nhấn mạnh trong thư cuối, cũng khác với những điều do thánh nhân thực hiện qua nghi thức lễ/tiệc ấy.
Nếu hỏi rằng: người theo Chúa có chấp nhận thánh Phaolô về với cộng đoàn mình không? Thật ra, cũng khó mà trả lời cho chính xác. Ở Tin Mừng thánh Máccô, ta thấy xảy ra “sự việc” ít thấy trong đời sinh hoạt công khai của Đức Giêsu là: hôm đó, có người thực hiện việc chữa lành người tật nguyền và dám trừ quỉ nhân danh Đức Giêsu và cũng làm theo kiểu Chúa và môn đệ Ngài làm, dù ta gọi việc đó là phép lạ hay không cũng chẳng thành vấn đề.
Vấn đề xảy ra khi ấy, là: một số tông đồ nòng cốt những muốn hạ bệ người này và những người có lập trường/khả năng tương tự. Nhưng, khi ấy Chúa đã phản bác ý kiến này và truyền cho các thánh cứ để họ làm thế, dù họ không thuộc nhóm của các thánh. Bởi, nếu những người này mà còn làm được điều tốt lành và theo kiểu tốt đẹp, thì đâu có gì là sai quấy. Theo thiển ý, thánh Máccô khi kể lại tình huống lúc ấy, là: để đưa ra một thẩm định về sự việc rất gần gũi với thời buổi và nơi chốn mà thánh sử là tác giả đang sống. Bởi, thánh Máccô viết Tin Mừng, là thánh sử viết tại Rôma vào những năm 70, sau khi Chúa về Trời.
Do đó, tôi thiết nghĩ, các thừa-tác-viên đồng-hành với thánh nhân đã thực hiện công cuộc mục vụ rất tốt, nhưng lại không được lòng các tông đồ trụ-cột như thánh nhân và đồng sự của thánh nhân, là các bậc nữ-lưu rất trọng vọng. Các nữ-lưu này, không đủ quyền như các đấng bậc trụ cột ở Giêrusalem như: thánh Phêrô, Giacôbê và thánh Gioan, nên không được phê chuẩn. Thêm vào đó, nhóm của các thánh chỉ gồm thánh Phaolô và các thừa-tác-viên nữ như các chị Phôêbê, Chloê, Priscilla, vv.. Nói tóm lại, điều đó cho thấy các vị này cũng đã làm nhiều điều tốt đẹp không chỉ ở Akaia thôi, mà còn ở La Mã cho cộng đoàn dân Chúa sống tại đây. Thánh Máccô còn nói: “Hãy cứ để họ làm như thế, vì họ đang làm những việc được Chúa khích lệ”. Duy có điều, là: thánh Máccô không đại diện cho tất cả các nhóm Đạo Chúa vừa phát triển, nên đó mới thành chuyện.
Thánh Phaolô từng có kinh nghiệm đổi đời, thoạt vào lúc Chúa sống lại và Chúa đã tỏ hiện cùng thánh-nhân qua thị kiến vĩ đại xảy đến với thánh nhân trên đường Đamát. Vì thế nên, sau đó thánh nhân mới trở về Ả Rập, tức về vùng Nabatêa nằm hướng Đông Nam Đamát, suốt 2, 3 năm liền để chứng tỏ là ông đã trải nghiệm được điều mà Giáo hội gọi là “Con Đường Đamát”. Chừng như thánh nhân cũng đã quay lại Đamát sống vài năm để san sẻ tình thân với tín-hữu ở đó những gì mà thánh nhân từng đạt được, ngõ hầu mọi người có thể thông hiểu đời của Chúa, nhất là sự việc Chúa sống lại đã rành rành. Sau này, thánh nhân lại lên đường đi Giêrusalem suốt 15 ngày ròng rã, là để gặp các lãnh tụ chóp bu con dân của Chúa sống ở Giêrusalem và để nghe biết nhiều điều về Chúa, hơn. Tiếp theo đó, thánh nhân lại đi Antiôkia và trở thành một phần của cộng đoàn dân con Đức Giêsu ở nơi này. Được Hội thánh ở đây đỡ đầu, thánh Phaolô đã trở thành vị thừa sai năng-nổ suốt 12 năm hoặc hơn, tại các thí điểm mục vụ như: Syria, Cicilia (tức một phần Thổ Nhĩ Kỳ) như mọi người ắt hẳn đều đã biết. Ở đây, thánh nhân đã miệt mài làm việc với các vị chưa thành người Do-thái nhưng vẫn tin vào Đức Giêsu cũng như tin vào Thiên Chúa của Ngài. Chính giai đoạn này, chừng như thánh nhân cũng từng làm việc tại Galatia chừng vài ba năm thêm nữa, nhưng không thành công cho lắm.
Dù thế, Giáo Hội Giêrusalem cũng đã phát triển rộng rãi lan sang nhiều chốn miền khác như Lyđia, Jôppa, Xêdarê, Siđôn… Cuối cùng, thánh nhân buộc phải về lại Giêrusalem để tham dự cuộc họp thượng đỉnh với các thủ lãnh Giáo Hội hầu bàn bạc về tình hình người anh em ngoại-giáo nay hồi hướng quay về với Đạo Chúa. Ở đây nữa, thánh nhân đưa ra đề nghị và cũng được công nghị chấp thuận, là: những ai vừa hồi hướng trở về ràn chiên của Chúa không cần qua thủ tục “cắt bì” như dân Do thái vẫn làm. Thành thử, vấn đề hỏi rằng: các vị này có cần phải trở thành người Do thái trước đã, rồi mới được làm tín hữu Đức Kitô, không?
Nhiều người nghĩ, câu trả lời cho vấn đề nêu trên phải là chữ: Có! Vâng. Ai cũng cần làm việc ấy và phải giữ luật Torah nhất là chế độ ăn uống các thức ăn thuần khiết. Thánh Phaolô lại chủ trương không cần phải như thế, và ông đã thắng. Có lẽ có người lại sẽ cho rằng ông đã mua phiếu của lãnh tụ các Giáo hội ở Giêrusalem, đó là chuyện rất thường xảy ra ở Trung Đông, nghĩa là chỉ cần thuận đem về cho Giêrusalem các thành quả quyên góp được từ cộng đoàn kiều dân sống tản mác ở bên ngoài rồi đem phân phát cho người nghèo khó ở nơi đó, thế là được. Có thủ lãnh nào ngửa tay ra nhận quà như thế, mà lại không đền đáp bằng món quà phê chuẩn, thuận thảo với thánh Phaolô, sẽ bị giới chức trong cuộc coi như người thiếu lễ giáo hoặc thiếu xã giao, lịch thiệp.
Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, một số lãnh tụ trong đó có thánh Phêrô và thánh Giacôbê, lại đã bội ước, bèn rút lại sự đồng thuận về chính sách mà thánh Phaolô chủ trương, đặc biệt là với cộng đoàn sống ở Antiôkia. Cũng xin mở dấu ngoặc ở đây để nói thêm, là: bà con ta phải nhận ra rằng: ở miền Cận Đông thời trước và có lẽ cả ngày hôm nay ở Trung Đông nữa, chẳng mấy ai thắng hoặc bại một cách triệt để hết. Bởi, người thua cũng sẽ đoạt lại được chút gì đó, sau khi đã đại bại. Và qua đó, hẳn cũng có người sẽ vội kết luận rằng: toàn bộ Giáo hội tiên khởi chừng như đã được bao bọc bằng thứ “bom nổ chậm” sẵn sàng nổ bùng vào bất cứ giây phút nào. Đúng thế. Và khi xảy ra những chuyện như thế, chắc chắn sẽ có luồng hơi lạnh vụt bốc theo chiều hướng khác nhau… Kết cuộc là, thánh Phaolô đành phải tách ly khỏi các đấng bậc này, và nhất là tách khỏi thánh Banaba người từng là bạn đồng hành cộng tác với ông, trong nhiều công tác mục vụ, vào dạo trước. Cuối cùng, thánh Phaolô đành theo con đường mình vạch sẵn như vị thừa sai độc lập, chỉ khẳng định quyền bính tư riêng trực tiếp có từ Đức Giêsu mà thôi.
Và như thế, thánh Phaolô là nhà hoạt động cho tự do từng trỗi dậy. Thánh nhân còn là nhà cách mạng từng bảo vệ quyền tự do có trách nhiệm, cho nhiều người. Thánh nhân không chỉ là người tái tạo thị kiến lớn, về cộng đồng nhân loại, nhưng ông là người sáng chế ra nhãn giới ấy và thực hiện nó, cũng rất đạt.
---
Thánh Phaolô và địa hạt tư riêng do mình tạo
Kể từ đó, thánh Phaolô rời bỏ thế giới Cận Đông để đi xa, xa hơn nữa, tập trung vào Châu Âu cũng khá lâu. Có một khoảnh khắc rất phút chốc về Đạo Chúa, đặc biệt là lịch sử của Châu Âu, giống như vậy. Bằng nhiều cách thức khác nhau, ta có thể khẳng định rằng: chính thánh Phaolô là người từng tạo cho Châu Âu ý nghĩa của tự do chưa từng có trong lịch sử, cả những tháng ngày của lịch sử Hy Lạp. Đó là tự do con cái Chúa, ta cần ghi nhớ.
Lúc đầu, khi thánh Phaolô đến Maxêđônia, ông đi thẳng vào thủ phủ Thessalônikê và Philíphê. Sau đó, thánh nhân mới tiến về thị trấn Akaia quan trọng nằm ở phía Nam Hy Lạp như thủ đô A-then và Côrinthô, điều đó có nghĩa là ông đã vào với trung tâm của nền văn hoá Hy Lạp đã thuần thành với La Mã. Thời gian ông tạm lưu lại tại các thủ phủ khác ở Châu Á là Êphêsô, có nghĩa là thánh nhân đã đặt mình vào với các thị trấn đang đến hồi đi lên, thuộc Trung Đông. Thành thử, có thể nói mà không sợ sai lầm, rằng: ông là nguời thành thị. Ông đến với thị thành theo đường rộng nối kết Đông-Tây hoặc các hải cảng quan trọng, ở đó có các trung tâm mậu dịch và di trú. Thánh Phaolô tự coi mình như đã làm hết tất cả tại nửa phần phía Đông của đế quốc La Mã và đã hướng tầm nhìn về phía Tây đế quốc này, là Tây Ban Nha. Thật ra, ông chưa một lần đặt chân lên đất nước Tây Ban Nha bao giờ cả. Nhưng, lại có mặt ở nhiều trung tâm to lớn khác từng chịu ảnh hưởng của nền văn minh La Mã đặt nặng lên các miền có nền văn hoá, chính trị và kinh tế kiểu Hy Lạp, cũng như Châu Âu.
Thánh Phaolô cũng đã định cư –nếu gọi được như thế- đặc biệt ở các thủ phủ như Côrinthô, Êphêsô và cuối cùng đã dừng chân, đóng đô ở La Mã nhiều tháng ngày. Ở đây, ông đã có hồ sơ dày đặc với cảnh sát, rất nhiều năm. Ba năm rũ tù ở Côrinthô. Ba năm khác bị nhốt ở Êphêsô và lại thêm ba năm nữa cũng bị nhốt ở La Mã, rất không chừng. Các nơi khác ở Châu Âu, ông chỉ ghé qua đôi ngày rồi thôi. Có nơi chỉ vài tuần là nhiều nhất.
Thánh Phaolô rất muốn đi Tây Ban Nha. Nhưng theo tôi, ông chưa từng đặt chân đến đó, dù chỉ một lần. Và cũng không ai nắm chắc được là: khi ấy ông còn giữ ý định đến đó nữa hay không. Bởi ông có đến những nơi như thế, thì cũng chẳng ai hiểu được tiếng Hy Lạp để nghe ông giảng về thần học Đức Kitô theo nhãn giới của riêng ông. Tây Ban Nha, thật ra cũng chẳng có hội đường nào dành cho người Do thái hết. Chẳng nhóm hội nào kính sợ Chúa, đến được nơi này. Những người được thánh nhân lân la/tiếp xúc và giảng giải, thường là các nơi khác, chứ không phải ở phần đất này.
---
|
|