|
CHƯƠNG V
NHỮNG NGƯỜI TỰ NGUYỆN BÌNH AN
Mấy ngày sau buổi đọc. Phúc âm ấy, một đà sức mạnh từ Chúa truyền xuống thúc đẩy Phanxicô vươn lên đỉnh trọn lành và mở ngay một mùa rao giảng việc đền tội.
Phanxicô trở về Assisi.
Trên đường về, gặp những người đang cần cù làm các công việc thường ngày, Phanxicô dừng bước, chào hỏi niềm nở:
Chào anh em ! Xin Chúa ban bình an cho anh em !
Rồi tiếp đó, Phanxicô lân la nói về ăn năn thống hối. Dáng người thanh niên ăn chơi kia không ai thấy nữa. Giờ đây, tâm hồn đã hướng cả về trời, Phanxicô như đang bừng lửa sốt mến và rạng ánh vuit tươi. Người nghe phấn khởi theo những lời đơn sơ phát ra từ một tâm hồn đã siêu thoát khỏi trần gian. Mỗi câu nói là một tia lửa hồng bắn vào thâm tâm người nghe, như có sức mạnh Chúa Thánh Thần ban xuống. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, nhưng về sau họ cũng thán phục.
Về Assisi, lần giảng chính thức của Phanxicô đầu tiên là ở nhà thờ Thánh Georgiô. Đây là nơi Phanxicô đã học đọc, học viết.
Thành Assisi lúc này đang sống trong tình trạng hỗn loạn, nên trước khi nói lời Thiên Chúa, bao giờ Phanxicô cũng mở đầu bằng câu: “Xin Chúa ban bình an cho anh chị em”. Chính Thiên Chúa đã dạy Phanxicô lời chào bình an ấy. Và Phanxicô luôn dùng lời chúc ấy. Bao giờ ngài cũng tin rằng cứ chúc rồi sẽ có hiệu quả. Ngài chúc cho các ông các bà, người già người trẻ, cho tất cả những ai gặp ngài lâu hay chỉ mới thoáng qua đường. Nhờ ơn Chúa, nhiều khi lời chúc ấy đã kêu gọi được kẻ lạc xa hòa bình biết thành tâm quay lại. Rồi họ lại tự nguyện làm con cái và chiến sĩ hòa bình.
Truyện Thánh Phanxicô do Ba Người Bạn Đồng Hành kể ghi rằng trước lúc Phanxicô trở lại, ở Assisi cũng đã có người dùng lời chúc ấy. Người này thường rảo khắp các nẻo phố, nói mãi một lời: “Hòa bình và hạnh phúc ! Hòa bình và hạnh phúc”. Rồi khi Phanxicô ra giảng, chẳng còn ai thấy bóng “ông Gioan Tiền Hô” báo trước công vụ tông đồ của Phanxicô này nữa.
Phanxicô không phải là người thứ nhất đã mang sứ mệnh hòa bình đến Assisi. Xưa nay đã có nhiều tu sĩ giảng rong và đông Khâm sai Tòa Thánh đến giảng. Nhưng hòa bình chưa thực hiện được. Vì các vị đến giảng đây thường không đứng vào cương vị, quên giữ hoà khí với người ngang quyền. Lắm khi các ngài nhúng tay vào những cuộc tương tranh giữa các giai cấp hay giữa các gia tộc. Hoặc giả các ngài có trung thành với mục tiêu đi giảng nữa, thì các đảng phái hay gia nhân lại lợi dụng danh vị các ngài, nhờ ảnh hưởng các ngài cho mạnh cuộc tương tranh – Trái lại, lời Phanxicô đã làm động lòng người nghe, vì lời Phanxicô nói chứng tỏ ngài có nhân đức thánh thiện, khác hẳn những người tới giảng trước. Phanxicô không xếp một hạng người nào làm đối phương hết. Ngài không chỉ trích, không thóa mạ, không kết án và không khai trừ người tội lỗi. Lời ngài nói không bao giờ lộ vẻ khinh khi những nhược điểm yếu đuối của con người. Ngài chỉ thương hại và chỉ giảng như một người được Chúa mặc khải mà thôi. Cho nên lúc này hơn bao giờ hết, dân thành Assisi mới thấy rõ mình đắc tội với hòa bình. Họ ao ước được gặp con người của Chúa có lời nói đơn sơ và cách làm thánh thiện kiểu bình dân ấy. Có mặt ngài, họ cảm thấy hạnh phúc và chính Phanxicô cũng cảm thấy sung sướng vì được đi truyền đạt sứ mệnh Chúa.
Tất cả những điểm phi thường ấy đã hấp dẫn nhân dân và qua những lời đơn giản, con người mới này đã truyền đạt cho thế gian một phương pháp mới tìm lại hòa bình, là đặt tình yêu Chúa Giêsu làm mục tiêu cho đời sống như Phúc âm dạy.
Từ đây tiếng nhạo cười đã hết. Người nghệ sĩ nghèo ca hát tình thương Thiên Chúa càng ngày càng thêm rõ mặt.
Phanxicô đến với dân chúng như một vị tiên tri. Người tội lỗi được nghe truyền ơn cứu chuộc và những tâm hồn đau khổ biết tìm lại nguồn vui. Phanxicô chỉ làm cái việc nhắc lại Phúc âm đã trở lại sức tác dụng và ý vị trước mắt buổi đầu. Người môn đệ đã làm sống lại vị Thầy Chí Thánh xưa và nhân đức người giảng đã thêm uy tín cho sứ mệnh. Đã ba năm nay, người người đều tai nghe mắt thấy Phanxicô sống như một ẩn sĩ nghèo và tận hiến giúp đỡ người phong.
Riêng những người có thiện tâm chờ đợi thì đang cùng Phanxicô cảm thông và cầu xin ơn soi sáng. Gặp Phanxicô, họ đã gặp một lời khuyến khích và thấy trước con đường phải tìm đi. Nếp áo Phanxicô mặc bỗng thành một lá cờ lý tưởng phất cao. Nhiều kẻ nhận thấy rằng đây là một hình thức sinh hoạt tôn giáo, một dòng tu mới đã ra đời.
NHỮNG ANH EM TIÊN KHỞI
 Trong độ mùa xuân năm ấy, Porziuncôla không còn là nơi ở ẩn cho riêng mình Phanxicô nữa. Chỉ trong vòng mấy tháng mà đã có mười hai môn đệ theo gót thầy. Những môn đệ tiên khởi này, Phanxicô gọi tên là “Anh Em Hiệp sĩ của Bà Chúa Nghèo”.
Đến đầu tiên là một người Assisi, đơn sơ và tốt bụng. Về người này sử sách không còn chép lại điều gì. Thoáng qua như một cái bóng đẹp, người ấy vụt biến giữa thời gian.
Tiếp theo, xếp đặt theo thứ vị truyền thống là anh Bernađô Quintavallô, anh Phêrô Catanê, và anh Êgiđiô. Ba tâm hồn thật là cao quý như truyện kể lại sau đây.
BERNAĐÔ QUINTAVALLÔ VÀ PHÊRÔ CATANÊ.
Bernađô Quintvallô được Thánh Bônaventura kể là người anh cả trong Dòng. Theo thời gian anh là người đến trước và theo mức thánh thiện anh cũng xứng đáng trăm phần.
Cũng như Phanxicô, anh thuộc giới nhà buôn giàu có. Nhưng khác Phanxicô về tính tình và tư cách. Tính anh đắn đo chín chắn. Giá trị sự vật ở đời được anh cân nhắc kỹ càng, nhất là các hành động của Phanxicô. Anh tự hỏi: cậu cả Bernađônê đi giảng lẽ hòa bình và thống hối, cậu có một lối xử sự khác thường, cốt cách con người và nội dung câu chuyện, câu nói không giống hẳn mọi người. Tại sao lại thế và như thế để làm gì? Tất cả đã làm xao xuyến lòng anh, nên tuy khôn ngoan và tỉnh táo, Bernađô vẫn bị sức hấp dẫn của Phanxicô lôi cuốn theo.
Sau những lần gặp gỡ riêng tư và kín đáo, nay đã đến lúc Bernađô mời Phanxicô về nhà, và từ đó Phanxicô cũng thường tới lui tạm trú.
Trong ngôi nhà Quintavallô hiện nay còn giữ được nguyên vẹn ở đường Sbaraglini thành Assisi. Một đêm kia cả Phanxicô và Bernađô cùng ngủ chung một phòng. Bernađô cố thức, nhưng làm bộ ngủ say, mong bắt gặp ở Phanxicô một điều gì khác lạ. Qủa nhiên sau một giác ngủ ngắn, Phanxicô nhẹ nhàng bước xuống khỏi giường, quỳ gối xuống nền nhà cầu nguyện mãi. Suốt đêm dài Bernađô lắng nghe Phanxicô cầu nguyện và giữa cơn sốt mến của tâm hồn thầm lặng, chốc chốc lại phát ra vài lời than thở với Chúa hay Đức Mẹ.
Từ đêm đó, gương sáng của Phanxicô không làm cho Bernađô hoài nghi hay lý luận nữa. Ngay buổi chiều hôm sau, Bernađô hỏi người khách đáng kính của anh rằng:
- Theo anh nghĩ, khi một người muốn bỏ hết tài sản mình có thì phải làm thế nào? Phanxicô trả lời:
- Tôi tưởng tài sản của người ấy là do Chúa ban. Vậy tốt hơn hết là đem trả lại cho Chúa.
- Anh nói rất hợp ý tôi. Vâng, vì lòng mến Chúa, tôi xin từ bỏ hết tài sản của tôi. Anh tính dùng vào việc gì cho hợp lý thì xin anh cứ tự tiện lấy dùng.
- Cám ơn anh. Nhưng tôi nghĩ, sáng mai ta nên đến nhà thờ để hỏi lại ý kiến Phúc âm, xem về điểm này, Chúa dạy môn đệ Người thế nào.
Ngày hôm ấy, có một sinh viên đã đậu tiến sĩ luật, tên là Phêrô Catanê, cũng được Chúa Thánh Thần soi sáng, để hỏi ý kiến Phanxicô và xin đi theo ngài như một học trò theo thầy giáo. Phanxicô rất vui mừng và cám ơn Chúa vì một người trí thức đã biết vui sống cuộc đời nghèo Phúc âm.
Sáng ngày mai, Phanxicô và Bernađô đi tìm Phêrô, rồi ba anh em đem nhau đến dự lễ ở nhà thờ Thánh Nicôla tại công trường thành Assisi. Thời ấy sách Phúc âm thường để cạnh bàn thờ cho mọi người tiện dùng. Lễ xong, Phanxicô mở Phúc âm ba lần. Lần đầu gặp mấy lời Thánh Mathêô:“Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết tài sản, phân phát cho người nghèo, như thế là con tích trữ kho báu trên trời, rồi trở lại theo Thầy”. Mở lần thứ hai, ba anh em cùng đọc: “Khi đi đường, các con đừng mang theo đồ tùy thân, bị gậy bánh tiền cũng đừng mang theo, đừng mặc hai áo.” Lần thứ ba, sách mở đúng câu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ bản thân đi rồi vác thánh giá mà theo Thầy”.
Vui mừng hiện lên mặt, Phanxicô nói to lên:
- Hai anh ạ! Đó là những điều hai anh phải làm. Đó cũng là những điều sẽ phải làm tất cả những ai muốn nhập bọn chúng ta.
Bói xong nghĩa Phúc âm, ba anh em trở về. Nhà luật sư Catanê gia nghiệp chẳng lớn lao gì, nên công việc thu xếp sử không kể lại. Còn Bernađô thì ít ngày sau đem cả gia tài phát chuẩn cho dân nghèo ở Assisi. Anh trao từng vốc bạc cho mỗi người tha hồ nhận. Bữa phát chẩn ấy Phanxicô cũng hiện diện. Ngài vừa phát giúp Bernađô vừa hát to tiếng ngợi khen Chúa.
Cảnh phi thường này đã lôi cuốn rất đông dân chúng đến xem. Ai cũng bỡ ngỡ và hỏi nhau rằng sao lại có người coi khinh của trần gian đến thế. Và giữa những người hiếu kỳ ấy, một vị linh mục tên là Sylvêtê bỗng tách ra, lại gần Phanxicô và nói:
- Có món tiền anh mua đá xây nhà thờ năm ngoái chưa trả cho tôi. Tiện đây xin anh cho lại. Phanxicô vội thưa:
- Vâng, nợ cha, con xin trả.
Nói xong, Phanxicô trao cho vị linh mục hai ôm quần áo. Sau lại trao hai ôm nữa rồi thưa:- Thưa cha, như thế này đã đủ chưa?
Vị linh mục im lặng, ôm gối quần áo ra về, chân bước ngượng ngùng.
Bernađô và Phêrô là những người tai mắt trong thành, ơn Chúa lại gọi hai anh một cách phi thường. Cố nhiên là dư luận rất xôn xao. Buổi phát chuẩn rộng tay càng gây thêm ấn tượng. Nhưng ba anh vẫn dửng dưng đưa nhau về Porziuncôla. Ai kể được Phanxicô vui mừng biết bao, vì đã có hai bạn đồng hành.
ÊGIĐIÔ
Bảy ngày sau tin Bernađô phát chuẩn mới đến tai Êgiđiô. Vừa nghe tin ấy Êgiđiô nhất định tìm đến Phanxicô xin nhập đoàn.
Êgiđiô là con một nhà nông ở ngoại ô thành Assisi. Của cải trần gian chẳng có gì, nhưng anh được Chúa phú bẩm cho tính tình cao thượng, và lòng mộ mến việc thiêng liêng. Phần lớn thì giờ anh thường dành riêng để suy gẫm. Anh là một người có óc lý luận kèm theo một trí thông minh dồi dào.
Truyện Êgiđiô tìm đến Phanxicô sau đây tỏ ra anh là một người khôn ngoan, nhưng lại rất đơn giản. Đã từ lâu anh chỉ nghĩ đến việc linh hồn, nên khi vừa được biết Phanxicô nhận các bạn cùng đồng chí hướng tu hành, anh vội vàng tìm đến xin theo. Sáng sớm hôm ấy, anh từ giã bà con, đến tìm Phanxicô ở nhà thờ Thánh Georgiô. Nhưng Phanxicô lại ở Porziuncôla. Êgiđiô xem lễ xong vội vàng sang Porziuncôla. Đến ngã tư gần trại phong San Salvtor anh gặp Phanxicô từ trong một lùm cây rậm bước ra. Vội vàng anh lại quỳ xuống dưới chân đầy tớ Chúa, xin ngài nhận làm môn đệ. Phanxicô vội vàng đỡ Êgiđiô dạy rồi dịu dàng nói:
- Em ạ! Hôm nay em được một ơn quý trọng vô cùng. Giá Hoàng đế đến Assisi này để chọn một hiệp sĩ mà ngài đã chọn em, thì chắc em lấy làm hãnh diện lắm. Đằng này chính Thiên Chúa đã gọi em làm hiệp sĩ trong đoàn quân bé mọn của các anh đây. Thật là một vinh dự lớn lao!
Nói rồi anh em dắt tay nhau về túp lều tranh Porziuncôla. Vào lều, Phanxicô giới thiệu Êgiđiô với Bernađô và Phêrô:
- Đây là Êgiđiô, một người em rất tốt. Thiên Chúa đã gửi đến cho chúng ta. Nào chúng ta hãy mở tiệc mừng em! Chiều hôm ấy, Phanxicô dẫn Êgiđiô vào thành xin vải may áo dòng cho anh. Dọc đường về, gặp bà lão nghèo xin bố thí, Phanxicô bảo Êgiđiô cởi áo mới biếu bà. Êgiđiô vâng lời cởi áo biếu ngay. Về sau kể lại cảm tưởng lúc biếu áo, Êgiđiô nói: “Vừa trao cái áo cho bà lão, tôi thấy áo bay thẳng lên trời cao. Tôi thấy lòng tôi rung lên vì sung sướng. Toàn thân tôi như bay lên tận mây xanh. Nhưng tôi còn sung sướng hơn nhiều, lúc chiều hôm ấy cha thành mặc cho tôi cái áo thô của đức nghèo”.
Sau này danh tiếng Êgiđiô vang lừng khắp nơi. Nhiều nhà trí thức tìm đến anh để hỏi han và nhờ anh giúp giải quyết những vấn nạn khó khăn. Anh có nhiều lời nói khôn ngoan. Anh bạo nói, chẳng nể sợ ai. Về khoa tu đức, tiến sĩ Bônaventura đã kể Êgiđiô là một bậc thầy.
MỘT SỐ ANH EM KHÁC

Một thời gian ngắn sau ngày Êgiđiô nhập đoàn, Phanxicô nhận thêm ba người khác. Cả ba đều là dân thành Assisi.
Anh Philiphê là một. Tục gọi anh là Philiphê Dài, vì người anh cao. Về sau anh giảng rất lợi khẩu, danh tiếng vang xa. Người ta bảo nhau: “Chúa đã lấy than đỏ tôi luyện môi anh”. Lời anh giảng vừa thâm thúy cao xa vừa ngọt ngào như mật ong. Anh hiểu thấu nghĩa Thánh Kinh và dẫn giải rất rõ ràng, mặc dầu anh đã không theo học một trường nào.
Linh mục Sylvêtê là hai. Ngài vừa tốt bụng lại vừa khôn ngoan đến hay do dự. Tuy cảm phục lòng đạo đức của Phanxicô, nhưng ngài vẫn còn nghi ngờ ý chí trung kiên của những người đi giảng không có chức giáo sĩ. Ngài lại e rằng không được xứng đáng lúc phải xếp hàng với lớp thanh niên bồng bột xung đột như người điên. Nhưng từ bữa nhận mấy ôm quần áo về, đêm nằm không ngủ, hơi thẹn với lương tâm. Một đêm ngài nằm mơ, thấy một con rồng quái đản, uốn lượn trăm khúc, bao chặt lấy Assisi, đang lăm le nuốt thành.
Sylvêtê sợ quá lúc nghĩ đến tai nạn sắp xảy ra. Bỗng Phanxicô hiện đến. Từ miệng Phanxicô mọc ra một cây Thánh Giá mạ vàng, cao vút đến tận trời, hai cánh tay giang ra tận cùng giới hạn mặt đất. Trước cảnh ấy con rồng khiếp sợ bay mất. Giấc mơ tái diễn ba đêm liền. Syltêvê công nhận đây là một dấu hiệu Chúa ban. Ngài tìm gặp Phanxicô, kể lại giấc mơ, rồi ít bữa sau xin nhập gia đình. Rồi từ đó ngài yên cảnh tĩnh mạc, chỉ chuyên chú đọc kinh cầu nguyện và chiêm ngưỡng cảnh trên trời.
Ba là Môricô. Anh là nhân viên trại phong San Salvator. Trước đây anh đã nhập đoàn Anh Em Mang Thánh Giá và có lần Phanxicô đã chăm sóc anh bị bệnh nằm trong một dưỡng đường.
Tiếp sau ba anh này, Phanxicô còn nhận thêm hai người nữa là Barbarô và Gioan. Barbarô ít năm sau theo Phanxicô sang truyền giáo ở miền Tiểu Á. Còn Gioan sử gọi là Gioan nón, vì anh cứ khăng khăng giữ mãi cái nón của anh, không chịu đội lúp như các anh em khác. Anh còn khác anh em khác nhiều điểm nữa. Tình anh thích những điều mới lạ. Hễ nói đến vâng lời là anh không chịu được. Về sau anh xuất khỏi dòng và chết thê thảm. Anh Gioan Nón đã đi ngược nẻo đường của thầy như ông Giuđa xưa.
Phần các anh em trên đều xứng đáng với danh hiệu là những người bạn đồng hành của vị Thánh Nghèo thành Assisi. Các anh đã trung thành sống một đời nghèo theo chính nghĩa Phúc Âm. |
|