|
CHƯƠNG VII
TRƯỚC GIÁO TRIỀU RÔMA LÊN ĐƯỜNG
Năm 1210. Mùa xuân mới về.
Gió hiền hòa tung tia nắng đẹp giữa không gian. Mười hai anh em từ giã Porziuncôla, lên đường đi Rôma. Lúc ra đi, Phanxicô đề nghị:- Anh em hãy chọn một người trong đoàn làm người dân đường. Mọi người phải vâng lòi anh ấy như vâng lời Chúa. Anh chỉ ngã nào, ta theo ngã ấy. Anh bảo trọ lại đâu, ta trọ lại đấy. Anh Bernađô đắc cử.
Và cuộc hành trình thật là may mắn. Ngày mùa xuân dài, anh em đi được nhiều đường đất. Tối đến anh em thường gặp những người từ tâm cho tạm trú. Riêng Phanixicô, chuyến đi này, ngài đầy niềm tin tưởng. Thế nào lúc đọc bản luật Nghèo, do Phanxicô vắn tắt soạn thảo, và đệ trình lên bản luật Dòng, Đức Giáo Hoàng Innôcentiô III cũng châu phê không ngần ngại. Ở trần gian này Đức Nghèo chính là bạn trăm năm của Chúa Cứu Thế. Đức Giáo Hoàng là đại diện Chúa Cứu Thế, dễ thường ngài lại không nhận ra?
Phanxicô mơ rằng trên đường đi, ngài gặp một cây cổ thụ, vừa to vừa cao, cành lá vươn dài che kín cả một vùng. Phanxicô bỡ ngỡ dừng chân. Bỗng một sức mạnh linh thiêng thổi Phanxicô cùng cao lên, ngang ngọn cây cổ thụ. Thế rồi, không phải cố gắng gì, Phanxicô chỉ thoáng đưa tay một cái, toàn thân vĩ đại kia đổ xuống nằm dài trên mặt đất.
Phanxicô cho đó là điềm lành Chúa báo. Anh em tin rằng với ơn Chúa, Đức Innôcentiô, vị Giáo Hoàng vĩ đại và đanh thép kia, sẽ chiếu cố đến đoàn người hèn mọn, phê nhận bản luật Nghèo. Công việc sẽ chẳng khó khăn gì. Là những tâm hồn nồng nhiệt, đoàn người đơn giản này cứ tưởng, ở trên trời cũng như ở dưới đất, tất cả mọi người đều hướng về một việc là hoàn thành sứ mệnh của Bà Chúa Nghèo mà anh em đang phụng sự.
Xuống khỏi thung lũng Spoleta, băng qua cao nguyên Riêti, hôm nay anh em đến giữa Rôma. Từng đôi mắt sáng ngời nhìn lên cung điện nguy nga của Đô Thành Bất Diệt. Từng đôi chân bước vui vui, không chút ngại ngùng e lệ.
ĐỨC GIÁO HOÀNG INNÔCENTIÔ.
Vào thời ấy, nhất là dưới triều Đức Innôcentiô, Rôma đã có tính cách quan trọng đánh mạnh vào trí tưởng tượng của các tầng lớp nhân dân và của các dân tộc. Đối với những ai cho thế kỷ XIII là “Thế kỷ Hoàng kim Công giáo” và thời đại Phanxicô là “ một thời đại văn minh điển hình”, thì Đức Innôcentiô III cũng hiện lên như “Một vị Giáo Hoàng hiển hách nhất của lịch sử” – Kể những vị Giáo hoàng chủ trương thuyết lưỡng quyền, thì vị áp dụng hiệu quả nhất là ngài.
Ở Ý, ngài phế quyền hoàng đế và đuổi hết quan chức của Hoàng đế ra ngoài lãnh thổ Giáo hoàng. Ở Sicilia, bà quốc mẫu suy tôn ngài làm giám hộ của hoàng thái tử sau này sẽ kế nghiệp lên ngôi Hoàng đế. Ở Đức, ngài phế vua Frédéric Suabe, lập Othon Brunswick, sau lại ra vạ tuyệt thông Brunswick, lập Fréderic II thế vị. Ở Anh, vua Jean sans Terre mất lãnh thổ, thành chư hầu ngài. Các vua nước Hung, nước Aragon và nước Castille cũng thế. Chỉ có nước Pháp và vua Philippe- Auguste là đang tính việc phản đối ngài.
Cả thế giới Công giáo đều ở dưới con mắt kiểm soát chu đáo của ngài. Trực tiếp hay gián tiếp, các vấn đề chung toàn đế quốc hay riêng từng dân tộc, các vấn đề trí thức tinh thần hay các vấn đề thuần túy Công giáo, tất cả ngài đều từng trải hết. Nhưng Giáo triều luôn luôn vẫn là trọng tâm hoạt động của ngài. Hoạt động chính trị chỉ là một hình thái trong tư cách của ngài thôi. Ngài lại là một tu sĩ khắc khổ trong đời sống tư và có một đức độ cao cả rất đáng khâm phục.
Nguyện vọng duy nhất của ngài là làm cho thế giới nên toàn thiện. Đối với ngài, việc phát huy uy quyền giáo hoàng trong địa hạt chính trị văn hóa chẳng qua là một phương tiện để đạt tới sự thánh hóa trần gian. Chủ trương này sai hay đúng, ta không bàn cãi - Duy có một điều ta quyết là vị giáo hoàng này chỉ muốn thiết lập thế quyền trên các dân tộc Công giáo, để nhờ đó dễ thực hiện việc thấm nhuần Phúc âm khắp mọi giai cấp và mọi tầng lớp người ở trần gian.
GIÁO PHÁI.
Vương quyền đế nghiệp đã ở dưới quyền điều khiển của Đức Innôcentiô thì các lạc giáo cũng đã vì ngài mà thất điên bát đảo.
Công cuộc cải cách của ngài đã phải đụng đầu với hàng giáo sĩ lệch lạc, với lớp tiên tri giả, với các giáo phái rối đạo và một số đông Công giáo bất mãn.
Không kể các vua chúa có đạo, vì tư lợi, đứng lên trực tiếp phản đối lưỡng quyền, coi thường vạ tuyệt thông, đem vũ lực trả lời Đức Giáo hoàng và lôi cuốn dân khinh mạn quyền thiêng liêng của Giáo hội, ta vẫn phải thừa nhận điểm này: một phố giáo sĩ đã diễn ra một cảnh rất đáng buồn. Sống giữa chế độ địa chủ, các vị này quá chú trọng việc đời, bỏ phế hẳn nhiệm vụ giáo sĩ, giảng dạy ít, không học hành gì, mua bán của thánh, sinh hoạt tự do và biếng lười. Sở dĩ có tình trạng ấy là vì một số giáo sĩ thời đó là dòng dõi quý tộc, ra tranh giữ địa vị giáo sĩ để hưởng quyền lợi và bổng lộc, có điều kiện căn bản là đức độ tu hành thì các vị rất thiếu. Tình trạng ấy rất trầm trọng và phổ biến đến chính Đức Innôcentiô, trong sắc chỉ “Quamvis” ra ngày 8-6-1218 đã nói: “Phải có sắt với lửa mới mong chữa lành được”. Đó là lý do làm cho ngài đau lòng. Tuy nhiên ngài vẫn kiên nhẫn trước thử thách. Ngài đã chọn một số Hồng y đồng quan điểm với ngài về những vấn đề cải cách cấp thiết và mảnh dẻ này.
Đâu đâu người ta cũng bàn đến công cuộc cải cách. Tuy đã có những vị thánh, như Thánh nữ Elisabeth de Schonau, Thánh nữ Reldegarde, Thánh nữ Ludgarde, được Chúa phái đến đánh thức những người chăn chiên chỗi dậy giữa đêm trường mù mịt, hoặc để báo trước phép công thẳng Chúa sắp thực hiện, đánh xuống trên ngai hoàng đế và trên ngai giáo hoàng bất xứng và chuẩn bị cho Chúa Thánh Thần tu dưỡng một lớp dân mới, nhưng cũng có rất nhiều nhà tiên tri giả đến quấy rối trật tự Giáo hội và náo động lòng người.
Tai hại nhất thì có Joachim de Flore (1145-1202). Lối giải thích và tính toán của ông đưa đến một chủ trương rất ngây ngô. Ông cho rằng: sinh hoạt của nhân loại diễn tiến theo ba thời kỳ điều khiển bởi Ba Ngôi: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ áp dụng luật Maisen, con người vâng lời mù quáng và sợ hãi. Thời ký thứ hai là thời kỳ ơn nghĩa, vâng lời người con thảo vì đức tin. Thời kỳ này không được hoàn hảo và đã kết liễu không khả quan gì, nên một thời kỳ thứ ba sẽ đến tiếp tục, kể từ năm 1260, khai mạc thời kỳ ngự trị của Chúa Thánh Thần. Tự do và tình thương sẽ kéo dài đến tận thế.
Những người chủ trương cải tạo như Joachim de Flore này đều muốn quay về với Phúc âm. Nhưng khốn nỗi, đa số muốn Công Giáo hơn Giáo Hoàng. Họ muốn dạy đạo cho Giáo Hội, nên họ đã rơi vào đạo rối.
Chẳng hạn như đoàn Vaudois ở Lyon, do Phêrô Valdez chủ trương. Đoàn này lúc mới thành lập đã được Đức Giáo Hoàng Alexandre III khen ngợi và tạm cho phép giảng luân lý. Nhưng rồi họ vượt quá giới hạn, lệch lạc giải thích Thánh Kinh và tín lý, vượt luôn cả quyền giám mục địa phương. Một số lập thành giáo phái Vaudois, đặt Thánh Kinh trên quyền tài phán của Giáo hoàng. Họ quyết rằng: Xưng tội với giáo hữu đạo đức hơn xưng tội với linh mục thiếu tư cách. Họ chối luyện ngục, chối ân xá và việc tôn kính các thánh, viện lẽ hàng giáo sĩ lợi dụng để làm tiền. Một số khác, ít hơn, biết hối cải, năm 1208, đến suy phục Đức Innôcentiô III xin thành lập nhóm “Người Công Giáo nghèo”.
Rồi đến một đoàn khác, gọi là “ những kẻ khiêm hạ”, xuất phát từ Lombardia. Đoàn này gồm ba dòng: Dòng các Anh, Dòng các Chị và Dòng Ba. Tất cả là những phần tử có cảm tình với các giáo phái Vaudois và Patarins. Mãi đến năm 1201 đại đa số mới thoát khỏi tình trạng hoài nghi và được Đức Innôcentiô III phê chuẩn sinh hoạt.
Trong số người bất mãn thời ấy, thật ra, vẫn có những tâm hồn thánh thiện, chỉ cầu mong theo dõi gương lành Chúa Kitô và các thánh Tông Đồ. Nhưng cũng có một số rất đông toàn là những người ngụy biện điêu ngoa, không ai có thể chịu được. Tệ hơn hết là những người mượn danh nghĩa cải cách để lôi cuốn thế giới vào tình trạng hỗn loạn. Những người ấy là phái Cathares. Ở Ý, phái này có tên là Patarins. Ở Pháp gọi là Albigeois. Ở Đông Âu là Bogomiles. Ở Bắc Âu là Bulgares.
Nhập cảng có lẽ từ Balkans,, những người Cathares chủ trương thuyết Nhị nguyên: nguyên tác lành là Thiên Chúa, nguyên tắc dữ là Satan. Loài người là tác phẩm công cộng của hai nguyên tắc. Chúa Giêsu nhập thể có mục đích khuyến khích ta ba việc: phản đối Satan, khởi ngụy với Giáo hội Rôma là tay sai của Satan ở trần gian và gia nhập giáo hội Cathares. Giáo hội Cathares có đủ điều kiện hướng dẫn loài người lên Thiên đàng.
Lý do gây nên bất mãn tiềm tàng kéo dài nuôi sống những thuyết rối đạo và những tổ chức giáo phái kia chính là một thứ Công giáo hình thức hẹp hòi.
Người giáo hữu, trong một buổi chờ mong phục hưng tôn giáo, đã trực giác được rằng: môt vị tiên tri chân chính sắp xuất hiện trên trần gian mang lại cho linh hồn họ tự do vui vẻ. Vị tiên tri ấy phải là một tâm hồn giản đơn và thẳng thắn, có thể bóc hẳn cái vỏ tập quán để trình bày Chân lý huy hoàng sống động, giới thiệu Chân lý ấy với người giáo hữu và người đạo rối như một đứa con đẻ hợp pháp của Đức tin Công giáo. Nhưng vị tiên tri ấy xuất hiện từ đâu và như thế nào? Không ai biết được và cũng không ai ngờ rằng một bình minh đã bắt đầu chiếu sáng. Đức Innôcentiô III, vị Giáo hoàng thiên tài và đạo hạnh xuất chúng hẳn là phải có một ý chí phán đoán siêu quần và một trực giác vượt hẳn thời gian. Nhưng lúc đến giờ phải chân nhận con người đang chờ đợi thì ngài lại không hiểu con người ấy. Cho nên, lần đầu tiên gặp Đức Giáo hoàng, Phanxicô đã thất bại.
BUỔI CHẦU ĐẦU TIÊN
Theo Mattheu Paris, một nhà sử học đồng thời với thánh Phanxicô, kể thì tính vốn chất phác, cho nên khi tới đền Latran, Phanxicô tự tiện đi thẳng vào, vô tư như đi vào nhà một người quen thuộc. Trong hành lang đền Latran, Đức Innôcentiô đang đi bách bộ. Đầu hơi cúi, có lẽ ngài đang suy nghĩ những dự định lớn lao. Một tâm hồn như Phanxicô bước thẳng đến trước mặt ngài và trình bày ngay nguyện vọng. Nhìn từ bộ áo thô nghèo đến mái tóc thiếu trật tự, Đức Innôcentiô tưởng Phanxicô là một người chăn heo đâu đó đã phát điên. Ngài gắt:
- Luật Dòng cái gì? Đi ra mà lo chăn heo của con. Muốn giảng thì giảng cho heo!
Không để Đức Giáo hoàng nói lần nữa, Phanxicô vội vã đi ra một chuồng heo, bôi bẩn lên người, rồi trở vào quỳ thưa:
- Lạy Đức Thánh Cha, con đã làm xong việc Đức Thánh Cha truyền. Cúi xin Đức Thánh Cha rộng lượng ban điều con xin.
Đức Innôcentiô tự bảo, đây không phải là bộ dạng của một vị lãnh tụ giáo phái muốn nổi loạn. Ngài nghĩ lại, phàn nàn đã xử tệ với Phanxicô, và sau khi bảo Phanxicô đi tắm rửa, ngài hứa cho Phanxicô một buổi chầu.
Chuyện Mattheu Paris kể có thể là giai thoại. Nhưng cứ xét bản tính khiêm hạ của Phanxicô và lối phát biểu nhiều khi quá cứng cỏi nặng lời của Đức Innôcentiô, thì tưởng giai thoại này không xa sự thật là bao nhiêu. Sự thật là lần đầu tiên Phanxicô vào bệ kiến Đức Giáo hoàng, vì quá đường đột nên bị ngài ngộ nhận điên. Ngài đuổi ra.
GIÁO TRIỀU PHÊ NHẬN LUẬT DÒNG.

Đáng lẽ trước khi kể nốt truyện Đức Giáo hoàng quyết định phê nhận luật Dòng, ta hãy xem lại nét đại cương của luật sơ thảo ấy. Nhưng nguyên bản chính thức luật này không còn truyền đến tay ta nữa. Ngày nay chỉ có bản xây dựng lại, không làm căn cứ được. Cêlanô và Truyện Ba Người Bạn Đồng Hành cũng chỉ nói rằng: Bản luật này rất ngắn, gồm những câu trích trong Phúc âm và ít nhiều chỉ thị đại cương chú trọng vào Đức Nghèo và Đức Khiêm hạ để khuôn đúng anh em vào một đường lối chung.
Bản luật ấy, kể về chi tiết, thì như thế nào chưa đủ ai rành rõi để có thể làm chính cương cho một Hội Dòng.
Phanxicô bơ vơ chưa biết làm thế nào để xin Đức Giáo hoàng phê nhận luật Dòng, thì may mắn làm sao! Trong dịp này lại có Đức Giám mục thành Assisi về Giáo triều bái mạng. Bất ngờ gặp anh em ở đây Giám mục Guiđô tưởng anh em đã từ giã hẳn Assisi rồi. Ngài rất lấy làm tiếc. Anh em định làm vui lòng ngài và trình bày chủ định sang Rôma chuyến này. Để giúp anh em một cách đắc lực, Đức Giám mục liền giới thiệu Phanxicô với Đức Hồng Y Gioan Phaolô. Đức Hồng y nhận lời cho anh em trọ trong dinh thự ngài.
Đức Hồng Y Gioan Phaolô là tai mắt ở Giáo triều. Tài đức của ngài lại vượt hẳn thành phần Hội đồng Hồng Y. Đức Giám mục Assisi lấy tình bạn nài xin rồi lấy tình bạn mà cam đoan rằng: Những “Người Đền tội thành Assisi” này quả có lòng thành kính đối với anh em, Đức Hồng Y cũng xác nhận rằng: Anh em quả có lòng đạo hạnh và khiêm hạ. Tuy nhiên, cứ theo tinh thần bảo thủ của nhà cầm quyền, ngài không thấy cần thiết phải lập một dòng mới. Ngài cố khuyên Phanxicô đừng chủ trương lập một dòng mới lạ, chỉ nên cùng anh em gia nhập một trong những dòng hiện hữu.
Phanxicô không để Đức Hồng y ủy dụ dễ dàng. Ngài nghĩ rằng biện hộ cho bản Luật Dòng ngài là một bổn phận thiêng liêng và vẫn khiêm nhường, Phanxicô thưa lên:
- Kính thưa Đức Ông, Chúa không gọi chúng con sống trong một ẩn viện hay sống trong cánh rừng hoang vắng, nhưng là sống một đời sống mới, trên nền tảng Phúc âm.
Thái độ khiêm hạ của Phanxicô đã chinh phục được Đức Hồng y theo quan điểm của anh em. Thành tâm và chu đáo như một vị giám hộ, Đức Hồng y đem việc trình lên Đức Giáo hoàng. Kết quả là người sáng lập Dòng được một buổi chầu đặc biệt, để trình bày dự định trước Giáo triều.
Buổi chầu đến, Phanxicô và anh em quỳ xuống dưới chân Đức Innôcentiô. Ngài vẫn giữ một thái độ nghiêm khắc nhưng đã sẵn lòng nghe Phanxicô trình bày. Cải cách Giáo hội là việc ngài chú trọng nhất, nhưng bất cứ trường hợp nào ngài cũng xử sự khôn ngoan.
Vừa nghe xong chương trình sinh hoạt mới của Phanxicô, các Đức Hồng y đều phản đối. Có vị cho rằng: Đây là một tên thủ lãnh giáo phái nghèo, kiểu “ Phái nghèo ở Lyon” hôm nay đến xin phê chuẩn bản luật có cái mã ngoài Phúc âm, để ngày mai lại đi tập hợp nhân dân khởi ngụy chống các Đức Ông. Nhiều vị khác cho rằng: một đoàn tu sĩ không thể tồn tại được, nếu không có tài sản hay bổng lộc. Và tất cả đồng thanh cho rằng: lối sinh hoạt đúng nghĩa đen Phúc âm như thế là ngoài sức con người. Chính Đức Giáo hoàng cũng ngại ngùng, ngài nói:
- Này các con yêu dấu, lòng nhiệt thành của các con làm cho ta yên tâm rằng các con có thể theo lối sinh hoạt này được rồi. Nhưng còn những kẻ theo gót các con, chắc họ sẽ nhận thấy lối sinh hoạt này là quá khắc khổ, không thể theo được.
Đức Hồng y Gioan Phaolô vội vàng thưa lên:
- Kính lạy Đức Cha, kính thưa các Đức Ông, tôi thiết tưởng nếu chúng ta phi lời xin của người nghèo này vì những lý lẽ viện ra lúc này, thì chẳng phải chúng ta đã quyết hẳn rằng Phúc âm không thể thực hành được. Quyết như thế là thóa mạ Chúa Kitô, tác giả Phúc âm.
Lý luận đanh thép này đã ấn tượng sâu xa trên cử tọa. Đức Innôcentiô trầm ngâm đôi lát rồi quay lại bảo Phanxicô:
- Con hãy đi cầu nguyện xin Chúa cho Giáo triều biết rõ thánh ý ngài. Khi biết rõ thánh ý Chúa rồi, ta mới có thể trả lời dứt khoát với con được.
Giáo triều ngại ngùng về bản Luật. Thái độ ấy có lý do. Vì bản Luật không khỏi có vài điểm tương đồng với chương trình hoạt động của các nhà cải cách thời ấy đã đi quá đã. Ai chẳng nghe tiếng Phêrô Valdez? Ai chưa từng gặp những người đạo rối Cathares len lỏi gieo rắc bất mãn và phá rối khắp nơi?
Dẫu sao, những ngại ngùng của Giáo triều cũng tan biến trước lòng đơn giản và chân thành của Phanxicô.
Các nhà viết truyện kể lại rằng: Khi Phanxicô đang cầu nguyện xin Chúa soi sáng cho Giáo triều thì Chúa đã báo mộng cho Đức Giáo Hoàng, Chúa lại khiển hứng cho Phanxicô một chuyện ngụ ngôn. Trong buổi chầu thứ ba tiếp đến, Phanxicô đem chuyện ngụ ngôn ra kể:
“Lạy Đức Thánh Cha, ngày xưa ở một khu rừng hoang vắng, có một người đàn bà rất nghèo nhưng rất đẹp. Có ông vua kia gặp nàng đem lòng yêu. Người đàn bà sinh mấy đứa con. Đàn con lớn lên, mẹ gọi lại bảo rằng: “Các con đừng vì nghèo mà thẹn. Các con là con vua”. Nàng lại bảo mấy đứa con lớn hơn rằng: “ Các con cứ về triều mà tìm cha các con. Thế nào cha các con cũng nhận được mặt và niềm nở đón các con”. Biết điều bí mật, biết rõ dòng dõi hoàng tộc, đàn con tin tưởng hăng hái đi về triều. Vua nhìn đàn trẻ đẹp quá, nhận được chúng giống nét mặt mình. Vua hỏi:
- Mẹ các con là ai?
- Tâu đức vua, là người đàn bà nghèo ở khu rừng hoang vắng.
Nghe trả lời đúng sự thật, vua vui mừng ôm sát đàn con vào lòng rồi bảo:
- Các con đừng sợ nữa. Ta đây thật là cha các con. Các con là những kẻ thừa nghiệp cha. Thường ngày cha tiếp bao nhiêu là người lạ ngồi ăn đồng bàn với cha thì nhất thiết cha phải nuôi dưỡng các con. Bao nhiêu bạc vàng châu báu xưa nay cha thu tích là có ý để dành cho các con.
Nói xong vua truyền đi xin bà mẹ cho tất cả các con khác về triều để vua nuôi dưỡng trong cung điện.”
Nhìn đôi mắt đăm chiêu của vị Giáo hoàng, Phanxicô thản nhiên nói tiếp:
- Lạy Đức Thánh Cha: Khu rừng hoang vu là thế gian này, ít nhân đức tươi tốt. Người đàn bà nghèo được vua sủng ái và sinh nhiều con là chính tôi mọn đang chầu trước Đức Thánh Cha đây. Chúa Kitô đã ban cho tôi mọn này nhiều con cái, nhằm mục đích thể hiện lại những nét chính của cha bằng cách tập theo đức nghèo của ngài. Những đứa con ngồi ăn đồng bàn với vua là anh em tôi mọn này, không bao giờ Chúa để túng thiếu. Chúa là Đấng rộng rãi nuôi dưỡng hết vạn vật kể cả những người tội lỗi.
Cả Giáo triều vừa bỡ ngỡ vừa cảm phục. Mọi người vừa nghe nhà thơ rong, bận đồ rách rưới mà lòng say sưa ca hát hạnh phúc sống cuộc đời nghèo. Ngờ vực đã tan trước ánh sáng sự thật, Phanxicô quả quyết không phải là một nhà cải cách nguy hiểm hoặc một người đạo rối Cathares nguyền rủa Thiên Chúa ác nghiệt đã bắt sống kiếp làm người. Phanxicô cũng không phải là một người kiêu ngạo lầm tưởng được ơn Chúa soi rồi căn cứ vào một số nhân đức hẹp hòi của mình, muốn bắt mọi người phải toàn thiện toàn mỹ và nói xấu mọi người. Dưới mắt xác nhận của Giáo triều, Phanxicô chỉ là một đứa con khiêm hạ của Thiên Chúa, không lên án giáo sĩ cũng không lên án giáo dân. Người con ấy chỉ nuôi một hy vọng là thông niềm vui của tâm hồn mình với bất cứ ai mong muốn.
Vị giáo hoàng lão luyện chính trị đã hiểu rõ: điều mà thế giới đang cần để cải thiện, chính là có được cái não trạng của nhà thơ rong này. Ngài sực nhớ đến giấc mộng ngài đã thấy cách đây mấy hôm. Ngài thấy đại Thánh đượng Latran, đầu và mẹ các thánh đường, đang nghiêng về một bên sắp đổ. Giữa lúc nguy nan ấy, bỗng từ đâu chạy đến một tu sĩ nghèo. Tu sĩ nhẹ đưa vai đỡ bên mái đổ. Toàn bộ đại thánh đượng đứng thẳng lên, giữ lại thế quân bình.
Giờ đây, ngài chắc chắn người tu sĩ nghèo, đang đứng trước mặt ngài đây, có thể đưa vai nâng đỡ Giáo hội.
Tuy không ban chiếu chỉ, ngài cũng đã dùng lời nói long trọng chấp nhận bản Luật của Phanxicô trước Hội đồng Hồng Y. Và sau một vài huấn từ cần thiết chân tình, ngài truyền cho Phanxicô chịu trách nhiệm hướng dẫn anh em. Còn Phanxicô tuyên hứa phục tùng Đức Giáo hoàng.
Bữa ấy, Phanxicô lãnh chức phó tế. Những anh em chưa có giáo phẩm đều lãnh phép cắt tóc. Và tất cả mười hai anh em đều được phép giảng lễ thống hối, nghĩa là nói với giáo dân những lời khuyên luân lý.
Thế là Dòng Phanxicô đã trực thuộc với giáo hội Rôma. Trong lúc chờ đợi một sắc chỉ phê chuẩn vĩnh viễn, Giáo hội đã nhận cho anh em bắt đầu thời kỳ thứ nhất. Tan buổi chầu, lúc cho anh em lui, Đức Innôcentiô còn thân ái dặn dò:
Các con về. Ta chúc bằng an cho các con. Xin Chúa ở cùng các con. Nếu Chúa cho oàn các con phát triển mạnh thì các con trở lại trình cho ta hay. Ta xét nếu cần, ta sẽ ban cho các con nhiều đặc ân và ký thác cho các con nhiều nhiệm vụ quan trọng.
Vốn không vụ hình thức, Phanxicô được lời nói của Giáo Hoàng đã cho là đủ. Lòng mãn nguyện, Phanxicô cảm tạ Chúa, đưa anh em đến viếng mộ hai Thánh Tông đồ, rồi lên đường ra khỏi giáo đô.
ORTÔ, NƠI TẠM TRÚ.
Trên con đường đất bột, dưới ánh mặt trời, anh em ngược theo bờ sông Tibrô, định qua Ortô để về Spolêta.
Gần tới Ortô, đoàn người dừng lại giữa một đám rừng hoang vắng. Suốt hai tuần lễ ở đây, anh em sung sướng hưởng cảnh nghèo thực sự. Say sưa với Đức Nghèo, anh em cương quyết không bao giờ rời bỏ nhân đức dịu dàng êm ái này nữa. Tình trạng nghèo thiếu ở đây thật là hết độ. Giữa cảnh hoang vu, không còn ai đến quấy rối thời gian cầu nguyện lâu dài của anh em. Chia phiên nhau, vài anh em lên thành thì xin ít nhiều của ăn, đang khi anh em khác ở nhà cầu nguyện. Đến bữa, anh em cùng nhau chia mẫu bánh, chút đồ ăn và chút nước lã. Của ăn thừa lại, không tìm ra người để cho, thì cất vào một góc để ăn ngày khác.
Anh em ai cũng mến cảnh hoang vu này. Có anh đâm ra sợ vì quá tha thiết chốn này mà sao lãng nhiệm vụ Chúa ủy thác cho chăng. Đàng khác, có anh nghiêng hẳn về lối sống ẩn dật không thiết quay về sống giữa loài người nữa. Phanxicô phải nhắc lại cho anh em biết nên noi gương Chúa Kitô nói rồi ngài đưa anh em lên đường về Assisi. |
|