23/04

Theo Chúa


Thứ Ba Tuần IV Mùa Phục Sinh - Năm C


Lời Chúa:
Ga 10, 22-30


22 Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. 23 Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. 24 Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". 25 Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. 27 Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. 28 Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. 29 Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. 30 Tôi và Cha Tôi là một".



Suy niệm:

A. Phân tích (Hạt giống...)

Tiếp theo bài giáo lý sống theo sự dẫn dắt của Chúa:
Chúa Giêsu là Mục tử: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”.

B. Suy gẫm (...nẩy mầm)

1. Tôi biết chiên của tôi. “Biết” theo thánh Gioan là “yêu thương”

Có một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:
- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi? Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta”.

2. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu Mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải “nghe tiếng” Ngài và “đi theo” Ngài. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.
Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

-Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là "Hãy theo ta! Hãy theo ta!")
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đitheo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mược đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu :"Men ah! Men ah!", nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?
Người chăn Syria trả lời:
- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Người ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:
Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.

Một mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ (Góp nhặt).

3. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.

Chúa Giêsu là vị Mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết rõ và biết từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Chúa là tấm bánh nuôi chúng con. Chúa hằng mong ước chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Xin cho Lời Chúa mãi là ngọn đèn soi dẫn bước chân chúng con đi trong chân lý và sự thật. Xin Mình và Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng chúng con trong ân sủng và tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa hằng tha thiết kêu mời chúng con. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúa không muốn chúng con đi theo tiếng của ma quỷ dẫn dắt vào đường xấu, vào con đường chết đời đời. Chúa muốn chúng con quay trở về với biển trời mênh mông của Chúa. Chúa muốn chúng con sống theo Lời Chúa vì: “cá không ăn muối cá ươn”. Cuộc đời chúng con đi lạc xa lời Chúa cũng sẽ rơi vào hố diệt vong đời đời. Chúa không muốn một ai trong chúng con phải hư mất. Chúa luôn tìm cách bảo vệ và che chở chúng con khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi hiểm nguy của ba thù.

Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho niềm khao khát sống với Chúa nơi chúng con được sống lại, để chúng con luôn được thuộc trọn về Chúa. Xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết đặt Chúa là trung tâm điểm của đời sống chúng con, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát là chính Chúa và giáo lý của Chúa để chúng con được no đầy ân tình của Chúa hôm nay và hạnh phúc nước trời mai sau. Amen.

(Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

__________________________________________


Bữa Ăn Thiên Ðàng Và Hỏa Ngục

Một ký giả kia được phép xuống hỏa ngục và lên thiên đàng để làm một bản phóng sự về đời sống của nhân dân tại đó.

Sau một cuộc hành trình gay go, ký giả trên lọt được vào địa ngục đúng vào giờ ăn. Nhìn vào bàn ăn, anh ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy trưng bày toàn sơn hào hải vị đang bốc khói hương ngào ngạt làm anh ta không khỏi nuốt nước bọt.

Nhưng lúc các kiều dân địa ngục tiến vào phòng ăn, chàng ta lại càng ngạc nhiên hơn khi thấy họ ốm o gầy mòn, chỉ còn da bọc xương, vài người đi không muốn nổi. Sự kinh ngạc tan biến khi chàng phóng viên chứng kiến cảnh họ dùng bữa. Vì muỗng nĩa rất dài buộc dính vào đôi tay không cho phép họ đưa thức ăn vào miệng, nên dù họ có cố gắng thế nào đi nữa, thức ăn chỉ đổ tháo ra đầy bàn hay rơi tung tóe xuống mặt đất. Tệ hại hơn là cảnh họ tranh giành nhau: vài người dùng muỗng nĩa để thay vì đưa thức ăn vào miệng, lại biến chúng thành những khí giới đập đánh nhau. Thật là một bãi chiến trường. Khi chuông báo giờ ăn đã mãn, họ buồn phiền rời phòng ăn, dạ dày vẫn trống rỗng.

Quá sợ hãi, chàng ký giả lập tức từ giã địa ngục để tiếp tục lên phóng sự trên thiên đàng. Ðến nơi cũng đúng vào giờ cơm. Bàn ăn cũng trưng bày những thức ăn ngon miệng. Quan sát nhân dân, chàng ta thấy ai nấy đều phương phi, khỏe mạnh, tuy đôi tay họ cũng được gắn chặt những muỗng nĩa rất dài. Có khác là thay vì họ cố gắng đưa thức ăn vào miệng mình, họ lại dùng muỗng nĩa để đút thức ăn cho nhau. Phòng ăn vang lên những giọng nói cười vui, thỏa mãn.

Kết thúc bài phóng sự tường trình về những điều mắt thấy tai nghe, chàng ký giả viết: Ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.

Kết thúc thời gian sáng thế, Thiên Chúa phán với hai ông bà nguyên tổ: "Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên đầy dẫy trên đất. Hãy làm bá chủ nó. Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất. Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ lá sinh hạt giống có trên mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống, chúng sẽ làm thức ăn cho các ngươi".

Với công trình sáng tạo và lời chúc phúc trên, Thiên Chúa muốn biến mặt đất thành Vườn Ðịa Ðàng, nhưng con người đã chia mặt đất thành đông, tây, nam, bắc, thành những nước thống trị và những nước bị đô hộ, thành những quốc gia giàu và những nước nghèo. Ðó là chưa kể con người đã và đang biến Vườn Ðịa Ðàng thành địa ngục qua bao nhiêu cuộc chiến tranh lớn nhỏ mà xét cho cùng cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi, tranh nhau miếng ăn, manh áo. Thật vậy, ích kỷ và vị tha là hai điểm khác biệt giữa địa ngục và thiên đàng.

Trích sách Lẽ Sống