Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới
kết quả từ 1 tới 40 trên 63

Chủ đề: Giới thiệu sách: Chúa Ba Ngôi

Hybrid View

  1. #1
    Bảo_†_Lâm's Avatar

    Tham gia ngày: Jan 2012
    Tên Thánh: Pierre-Hilaire
    Giới tính: Nam
    Đến từ: Sài thành
    Quốc gia: Không chọn
    Bài gởi: 284
    Cám ơn
    2,043
    Được cám ơn 2,001 lần trong 281 bài viết

    Default

    Danh xưng “Thiên Chúa”.

    Khi thụ hưởng những điều được các Giáo phụ làm sáng tỏ và khi áp dụng phương pháp chung ở thời đại mình, thánh Thomas phân biệt, một đàng đây là một danh xưng mang tính biểu thị. Đàng khác, danh xưng này xác định một hay nhiều thực tại (nghĩa là các thực tại được áp dụng cho danh xưng này)[1]. Theo khía cạnh thứ nhất, thì một danh từ trình bày một khái niệm nội dung: điều này chỉ có nghĩa hình thức. Đàng khác, một danh từ thường được dùng để “giới thiệu” hay chỉ định một thực tại đặc thù nào đó trong các phát ngôn của chúng ta. Chẳng hạn, danh từ “người” biểu đạt bản tính người trong một cá thể đặc thù. Danh từ “người” biểu thị bản tính nhân loại của người đàn ông hay người đàn bà. Nhưng khi chúng ta nói rằng “những người mất tự do” thì danh từ “những người” trong mệnh đề này chỉ định hoặc chỉ qui chiếu về những người đó mà thôi, tức những người bị giam giữ. Khía cạnh thứ hai (sự chỉ định, và sự áp dụng một danh từ cho một thực tại cụ thể nào đó) được liên kết với khía cạnh thứ nhất (ý nghĩa), bởi vì chính nhờ vào một danh từ biểu thị mà nó có thể có một sự qui chiếu nào đó trong những lời phát biểu của chúng ta.
    Thế nhưng, theo nội dung đặc thù chứ chẳng phải theo sự thích ứng ngôn ngữ, danh xưng “Thiên Chúa” có thể ám chỉ Ngôi Cha, Ngôi Con hoặc Ngôi Ba. Nó cũng có thể được áp dụng cho cả Ba Ngôi. Hạn từ “Dieu” là một danh từ gọi chung. Để tránh việc kéo dài sự trình bày, chúng ta cùng nhau giới hạn vào các thí dụ liên quan liên quan đến Chúa Cha và Chúa Con, trong khi vẫn biết rằng sự suy tư này cũng liên quan đến Chúa Thánh Thần. “Thiên Chúa đã sinh Con Một từ đời đời và sai Ngài đến trong thế gian để cứu độ chúng ta”. Trong mệnh đề này, hạn từ “Dieu” chỉ định Chúa Con theo cách phân biệt (x.Gl 4, 4: “Thiên Chúa đã sai Con mình đến”. Chúng ta hãy lấy một ví dụ khác rút ra từ Kinh Tin Kính: Chúa Con là “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa”. Ở đây, hạn từ “Dieu” thứ nhất chỉ định rõ ràng là Chúa Con, trong khi hạn từ “Thiên Chúa” thứ hai xác định cách rõ ràng là Chúa Cha. Tiếp đến, chúng ta hãy xét hai ví dụ cuối cùng: “Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần”; “Thiên Chúa duy nhất, toàn năng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta”[2]. Ở đây, hạn từ Thiên Chúa được áp dụng cho cả Ba Ngôi.
    Ngôn ngữ có tầm quan trọng của nó. Đối tượng đức tin được diễn tả trong những lời tuyên xưng phù hợp với mức độ giá trị. Trong việc nghiên cứu về lãnh vực thuật ngữ đức tin, thánh Thomas giải thích rằng “hạn từ Dieu biểu thị yếu tính thần linh trong hạn từ sở hữu yếu tính”[3]. Hạn từ Dieu “biểu thị Đấng có bản tính thần linh” (các giải thích này xuất phát từ thánh Damascène là người đã có công tóm tắt những kết quả suy tư của các Giáo phụ Đông phương)[4]. Từ đó, hạn từ Thiên Chúa xuất hiện, căn cứ vào điều mà hạn từ đó biểu thị, nó có thể được áp dụng cách riêng biệt cho Chúa Cha hoặc Chúa Con hoặc Chúa Thánh Thần, cũng như nó có thể chỉ định cho cả Ba Ngôi. Khi chú giải câu đầu tiên của Tin Mừng theo thánh Gioan, thánh Thomas đã dùng lối phân tích ngôn ngữ này nhằm chứng minh rằng, qua câu Kinh Thánh “Ngôi Lời ở bên Thiên Chúa”, hạn từ Thiên Chúa được xác định là Chúa Cha. Và thánh nhân đọc trong cùng đoạn đó rằng “Thiên Chúa là Ngôi Lời” thì chúng ta lưu ý rằng, hạn từ Dieu (xuất hiện ở đây bằng tiếng Hy lạp không có mạo từ: theos) được xác định riêng biệt cho Ngôi Lời là Chúa Con: đặc biệt, hạn từ “Thiên Chúa” (Dieu) này có thể chiếm vị trí trong Ba Ngôi hoặc là một trong Ba Ngôi[5]. Những giải thích đó có thể được áp dụng cho những câu Kinh Thánh khác qui gán hạn từ Dieu cho Chúa Kitô, chẳng hạn như lời tuyên xưng của thánh Thoma Tông Đồ khi thưa với Đức Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (ho theos mou!)” (Ga 20, 28). Trái lại, nếu người ta lưu ý đến sự kiện mà thần tính Đức Giêsu đã được tỏ bày nhờ việc qui chiếu vào Cha Ngài và khởi đi từ niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất được Cựu Ước tuyên xưng thì người ta cũng có thể hiểu hơn rằng, trong Tân ước, danh xưng gọi chung “Dieu” được áp dụng theo cách đặc biệt cho Chúa Cha mà không loại trừ thần tính thực của Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
    Chúng ta hãy lưu ý thêm một lời nhận xét cuối cùng liên quan đến từ ngữ. Để diễn tả sự duy nhất thần linh giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thường người ta bàn về “thuyết độc thần” (monothéisme). Chúng ta cũng theo cách sử dụng chung này, nhưng cần phải lưu ý rằng, hạn từ “monothéisme” được đặt ra khá muộn trong văn hoá Tây phương và đôi khi nó mang nhiều ý nghĩa nhập nhằng. Nhất là việc sử dụng mang tính phiếm định của từ này có thể dẫn đến chỗ trình bày “nhiều độc thần thuyết” [nhiều tôn giáo hoặc nhiều triết thuyết=religieux ou philosophiques] như những thực tại đơn nghĩa và hoàn toàn giống hệt nhau[6]. Thế nhưng, điều này không hoàn toàn khẳng định được sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất. Do đó, cần phải xét đến sự duy nhất của Thiên Chúa, đồng thời còn phải tìm hiểu xem thế nào là một Thiên Chúa duy nhất. Hơn nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến các tương quan mà vị Thiên Chúa “duy nhất” này duy trì với thế giới và với con người. Một đàng, vị Thiên Chúa “duy nhất” không chỉ có mối tương quan với muôn loài, nhưng trước hết Ngài có mối tương quan với chính Ngài: Thiên Chúa thì đơn thuần. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở chương thứ tư. Đàng khác, đối với niềm tin kitô giáo thì Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cuối cùng, chúng ta biết được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong đức tin, bởi vì Chúa Cha đã “yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3, 16) và vì Ngài đã “sai Thánh Thần của Con một mình đến ngự trong lòng chúng ta mà kêu lên: Abba, Cha ơi!” (Gl 4, 6). Chính trong ý nghĩa này mà chúng ta bàn về Học Thuyết Ba Ngôi Độc Thần “Monothéisme Trinitaire”.
    Tóm lại, sự mặc khải về thần tính Đức Giêsu và thiên tính Chúa Thánh Thần chẳng phải là do một loại mặc khải “thêm vào” làm tan vở tính duy nhất thần linh (ba thiên chúa hoặc hai thiên chúa sau thấp kém hơn thiên chúa trước), nhưng do một sự bao hàm cả Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự đồng nhất của một Thiên Chúa duy nhất. Về sau, sự bao hàm này đã dẫn các kitô hữu đến chỗ suy tư về ý nghĩa của hạn từ “Dieu” và về việc sử dụng hạn từ này cách sâu xa hơn nhằm xác định Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính niềm tin vào Chúa Con và Chúa Thánh Thần dẫn chúng ta đến chỗ nắm bắt sự phong phú của hạn từ “Thiên Chúa”. Ngài là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.


    [1] Nous expliquons ainsi, de façon quelque peu simplifiée, la distinction que saint Thomas fait entre significare et supponere.

    [2] «Adesto, unus Deus omnipotens, Pater, Filius et Spiritus Sanctus » (antienne de l'office des lectures de la fête de la Sainte-Trinité).

    [3] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, I, q. 39, a. 4.

    [4] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, III, q. 4, a. 3 ; voir saint Jean Damascène, La Foi orthodoxe, livre III, chap. 11 [55] (Die Schriften des Johannes von Damaskos, éd. Bonifatius Kotter, vol. II, Expositio fidei, Berlin, 1973, p. 133).

    [5] Saint Thomas d'Aquin, Commentaire sur saint Jean, 1, 1 (n°44 et n°s 53-59).

    [6] Voir à ce sujet les observations de Rémi Brague, Du Dieu des chrétiens et d'un ou deux autres, Paris, 2008, p. 13-47 et 77-113.
    Chữ ký của Bảo_†_Lâm
    phó giáo dân

  2. Có 7 người cám ơn Bảo_†_Lâm vì bài này:


+ Trả lời chủ đề + Gửi chủ đề mới

Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com