|
Chúng ta có thể quan sát hai nền tảng chính của giáo lý Công Giáo. Các nền tảng này liên quan đến mặc khải và chứng từ của Thánh Kinh. Nền tảng thứ nhất hệ tại ở sự tương xứng giữa một đàng là hành động của Thiên Chúa Ba Ngôi trong kế hoạch và một đàng là hữu thể vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Như chúng ta đã lưu ý ở chương thứ hai trên đây (trong giáo huấn của thánh Gioan và các sách Công Vụ Tông Đồ) rằng, Chúa Thánh Thần được Chúa Cha và Chúa Con sai đến và ban cho Giáo Hội. Cũng thế, Kinh Thánh dạy rằng, Chúa Thánh Thần đến từ Chúa Cha và Ngài cũng đến từ Chúa Con: Ngài là: “Thánh Thần của Đức Giêsu” (Cv 16,7), “Thánh Thần của Chúa Kitô” (Rm 8, 9), “Thánh Thần của Chúa Con” (Ga 4, 6), Thánh Thần là Đấng “đón nhận những gì nơi Chúa Con” (x. Ga 16, 14-15). Thế nhưng, sứ mệnh của Chúa Thánh Thần biểu lộ hiện hữu riêng biệt của Ngài: sứ mệnh của Chúa Thánh Thần tỏ cho biết sự nhiệm xuất đời đời của Ngài. Nói khác đi, kế hoạch mà trong đó Chúa Thánh Thần được Chúa Cha và Chúa Con đổ tràn, là sự biểu hiện của điều mà Chúa Thánh Thần có ngay từ đời đời. Cũng như Chúa Thánh Thần nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con trong vĩnh cửu. Theo kế hoạch, Ngài đến từ Chúa Cha và Chúa Con. Kế hoạch của các Ngôi Vị thần linh trong thời gian được tuân theo thứ tự nguồn gốc từ đời đời của các Ngài. Chúng tôi minh định rằng, giáo lý Công Giáo không quan niệm sự nhiệm xuy từ đời đời của Chúa Thánh Thần bằng một “sự phóng chiếu” của kế hoạch vào đời sống nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng nó giữ vững sứ vụ phản chiếu nguồn gốc. Cũng như Chúa Con, Đấng đã được Chúa Cha sinh ra và được Người sai đi, thì Chúa Thánh Thần cũng thế, Ngài nhiệm xuy từ Chúa Cha và Chúa Con và được Chúa Cha và Chúa Con sai đi. Nền tảng thứ nhất này được Giáo Lý Công Giáo nhắc lại cách rõ ràng: “Nguồn gốc vĩnh cửu của Thánh Thần được mặc khải trong “sứ vụ trong thời gian” của Ngài”[1].
Nền tảng thứ hai được liên kết chặt chẽ với nền tảng thứ nhất: đó là vấn đề hiệp nhất thần linh giữa Ba Ngôi, Cha, Con và Thánh Thần. Khi tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con, Giáo Hội Công Giáo diễn tả đặc tính đồng bản thể giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong sự phân biệt giữa các Ngôi Vị với nhau. Chúng ta đã lưu ý trên đây rằng, công thức “và Chúa Con” (et du Fils) đặt nổi Thiên tính tròn đầy của Chúa Con: nó nhấn mạnh sự hiệp thông đồng bản thể giữa Chúa Con với Chúa Cha. Đồng thời nó cũng đặt nổi thiên tính thật của Chúa Thánh Thần. Bởi vì Ngài nhiệm xuy từ Chúa Cha và Chúa Con. Truyền thống Công giáo bày tỏ tương quan thân thuộc chặt chẽ giữa việc khẳng định sự duy nhất bản thể của ba Ngôi Vị (một bản thể duy nhất) và sự nhận biết yếu tố nhiệm xuy của Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con.
Hai nền tảng này đều có căn nguyên là Lời Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa được Giáo Hội trình bày hoàn toàn đồng nhất với đức tin và chính Lời đó đã thiết lập niềm xác tín của Giáo hội Công giáo. Niềm tin vào Chúa Ba Ngôi được diễn tả bằng các thuật ngữ bản thể và các tương quan dựa trên cơ sở của hai nền tảng này. Sự phân biệt giữa các Ngôi Vị Thiên Chúa liên quan đến các tương quan của chúng (như chúng ta đã trình bày ở chương IV trên đây). Đoạn trích Giáo Lý Giáo hội Công Giáo sau đây tóm tắt giáo huấn truyền thống này:
“Các Ngôi Vị Thiên Chúa có tương quan với nhau, bởi vì sự phân biệt thật sự giữa các Ngôi Vị với nhau không phân chia thần tính duy nhất, nên sự phân biệt đó chỉ cốt tại các mối tương quan giữa các Ngôi Vị, Chúa Cha có tương quan với Chúa Con, Chúa Con có tương quan với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần có tương quan với hai Ngôi Vị kia. Khi xét về tương quan thì chúng ta nói là Ba Ngôi, nhưng chúng ta tin vào một bản tính hay một bản thể.” Thật vậy, giữa Ba Ngôi “mọi sự đều là duy nhất, khi không nói đến sự đối lập về tương quan” (Công Đồng Florence năm 1442)[2].
[1] Catéchisme de l'Église catholique, n° 244. Le Catéchisme poursuit : « L'Esprit Saint est envoyé aux Apôtres et à l'Église aussi bien par le Père au nom du Fils, que par le Fils en personne, une fois retourné auprès du Père (cf. Jn 14, 26 ; 15, 26 ; 16, 14). »
[2] Catéchisme de l'Eglise catholique, n° 255. |
|