|
|
Khi thánh Thomas d’Aquin dạy rằng, Chúa Thánh Thần nhiệm xuất trong tư cách là Tình Yêu (sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần là sự nhiệm xuất của Tình Yêu), sự “tương tự” mà ngài giữ lại để làm sáng tỏ đôi chút khẳng định này không phải là hành vi yêu đương của chúng ta theo tư cách như thế. Đúng hơn, Thánh Thomas d’Aquin chú ý rằng, khi ý chí nhân loại yêu mến, ý chí này làm nảy sinh trong chính nó một “ấn tượng có thể nói là của đối tượng được yêu”. Ấn tượng này “thúc đẩy và lay động ý chí của đối tượng yêu mến đến với đối tượng được yêu”[1]. Khi chúng ta yêu mến một hữu thể, thì hữu thể được yêu này “khắc sâu” hay “in sâu” vào lòng chúng ta như là một sức nặng của tình yêu quyến rũ chúng ta và lôi cuốn chúng ta đến với nó. Như thế, điểm xuất phát của tác động yêu mến chính là “ấn tượng” từ sự tốt lành mà chúng ta yêu mến đã được khắc sâu trong ý chí chúng ta. Ấn tượng này là một nguyên lý thôi thúc đến với sự thiện được yêu mến. Nó thúc đẩy ý muốn chúng ta đến với sự thiện này. Ấn tượng quyến luyến của đối tượng được yêu mến nằm trong ý muốn của người yêu là nguyên lý năng động của khuynh hướng yêu thương. Nhờ có sự “tương tự” mà thánh Thomas d’Aquin đề xuất việc thoáng thấy đôi chút đặc tính riêng của Chúa Thánh Thần nhờ phép loại suy, chính “ấn tượng” của hữu thể được yêu này ở trong ý chí của hữu thể yêu mến, một ấn tượng phát xuất từ ý chí được bộc lộ và nó ở ngay trong ý chí. Và chính tình cảm hay “ấn tượng” này, do sự thích nghi của ngôn ngữ (vì từ vựng của chúng ta không có một từ nào chính xác hơn), mà ở đây, chúng ta ch? định bằng từ ngữ “Tình Yêu”: tình yêu, ấy là ấn tượng của hữu thể được yêu nhiệm xuất.
Vì vậy, khi nghiên cứu “ấn tượng của hữu thể được yêu” nhờ phép loại suy và một loại thích ứng của ngôn ngữ mà thánh Thomas minh chứng rằng Chúa Thánh Thần chính là hiện thân của Tình Yêu. Ấn tượng quyến luyến chính là nguyên lý thôi thúc đến với đối tượng được yêu mến, nó cho phép bày tỏ một tác động sinh sản của nhiệm xuy trong Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình. Thật vậy, trong ý muốn nhân loại, ấn tượng yêu mến này có một tương quan cội nguồn đối với ý chí, nhờ đó nó xuất phát và tồn tại. Tương quan này thì khác với tương quan của lời do lý trí chúng ta cưu mang. Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, Tình Yêu là một thực tại vô cùng cao siêu đối với tình yêu của nhân loại chúng ta, nhưng người ta có thể nhìn nhận nó theo lối siêu việt, dựa trên kiểu mẫu bất thụ tạo mà “ấn tượng của hữu thể được yêu của chúng ta” phản chiếu. Như thế, nhờ sự tương tự rút ra từ “ấn tượng” của tình yêu, thánh Thomas d’Aquin tỏ bày cho lý trí của những kẻ tin, rằng Tình Yêu phát xuất và rằng tương quan xác định “Tình Yêu phát xuất” này phân biệt với tương quan xác định Ngôi Lời[2].
Do vậy, chúng ta phải cẩn thận lưu ý rằng, trong ngôn ngữ chúng ta có về Thiên Chúa Ba Ngôi, trước hết từ ngữ “Tình Yêu” xác định chính hữu thể của Thiên Chúa Ba Ngôi[3], nghĩa là toàn thể Ba Ngôi. Sau đó, sự thính ứng của ngôn ngữ mà chúng ta đã cố gắng giải thích khi đối chiếu với “ấn tượng của hữu thể được yêu mến trong ý muốn của người yêu mến”, cách riêng, chính danh từ “Tình Yêu” xác định Ngôi Vị Thánh Thần. “Thiên Chúa “là tình yêu” trong đời sống nội tại của Ngài (x. 1Ga 4, 8-16), một tình yêu tự yếu tính thì chung cho cả Ba Ngôi thần linh; Thánh Thần là Tình Yêu ngôi định trong tư cách là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Con”[4].
[1] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, I, q. 36, a. 1 ; q. 37, a. 1 ; voir aussi Somme de théologie, I-II, q. 28, a. 2, corp. et ad 1.
[2] Saint Thomas d'Aquin, Somme de théologie, I, q. 37, a. 1.
[3] Catéchisme de l'Eglise catholique, n° 221.
[4]Jean-Paul II, Lettre encyclique Dominum et vivificantem, n° 10 ; La Documentation catholique, 83,1986, p. 585. |
|