|
|
Thay Lời Kết.
Chúng ta không lấy lại các yếu tố khác nhau tạo nên cuốn sách này, nhưng chúng ta tóm lại cách vắn tắt lộ trình đã được trình bày nghiên cứu. Việc trình bày của chúng ta về giáo huấn liên quan đến Thiên Chúa Ba Ngôi bao gồm ba giai đoạn trong một nghiên cứu chung cục nhờ việc kiếm tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa trong cuộc sống hạnh phúc viên mãn.
Giai đoạn thứ nhất, theo chứng cứ Kinh Thánh, đó là việc nghiên cứu kế hoạch Thiên Chúa, trong đó chính mầu nhiệm được biểu lộ và ban tặng cho nhân loại: Chúa Cha cứu độ nhân loại bằng việc sai Con Một và bằng việc đổ tràn Thần Khí thánh hoá. Đức tin và các Bí Tích là nguồn lực chính cho việc suy niệm Kinh Thánh và ân huệ cứu độ của Giáo hội. Trong đó chúng ta bắt gặp một ví dụ điển hình theo chứng lý “cứu độ học” quí giá cho nhiều Giáo Phụ: khi chúng ta được tham dự vào đời sống thần linh thì Chúa Con và Chúa Thánh Thần tỏ cho chúng ta thấy Thần Tính của các Ngài; và khi dẫn đưa chúng ta vào sự hiệp thông với Chúa Cha trong sự hoà hợp các tương quan ngôi vị, thì các Ngài tỏ cho chúng ta thấy sự phân biệt các Ngài trong sự duy nhất.
Trong giai đoạn hai, chúng ta đã có dịp kinh qua giáo huấn tín lý “suy lý”, theo nghĩa cổ xưa, thì từ ng? này đồng nghĩa với “chiêm niệm” về hữu thể Ba Ngôi vĩnh cửu, nghĩa là về các Ngôi Vị thần linh, các tương quan và các đặc tính của các Ngài, ngôi vị tính riêng biệt và tính đồng bản thể của các Ngài. Ở đây, trong khi thừa hưởng công trình đào sâu giáo lý Kinh Thánh được các Giáo Phụ và các tiến sĩ Giáo hội thực hiện, thần học giải thích chính mầu nhiệm mà kế hoạch Thiên Chúa tỏ hiện: đó là sự hiệp thông giữa ba Ngôi Vị thần linh trong sự phân biệt và duy nhất của các Ngài. Đó là học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi “nội tại”, nghĩa là Ba Ngôi thần linh trong tư cách là hướng về nhau trong sự hiệp nhất giữa các hữu thể thần linh.
Cuối cùng, giai đoạn ba đưa ra một suy tư “có tính suy lý” về hoạt động của các Ngôi Vị thần linh trong thế giới nhờ vào những gì mà hai giai đoạn trước cho phép chúng ta làm sáng tỏ vấn đề. Giai đoạn ba này đề xuất một học thuyết về Chúa Ba Ngôi trong công trình sáng tạo, nghĩa là Ba Ngôi “hướng về các thụ tạo” trong hành động sáng tạo và thánh hoá của Ngài và Ba Ngôi được nhìn nhận như là “nguyên lý” và “cứu cánh” của thụ tạo. Giai đoạn ba này đặt nền tảng trên giai đoạn thứ nhất (mạc khải Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong kế hoạch cứu độ) và nó cũng cần thiết giả định giai đoạn hai. Bởi vì khi phân biệt các tương quan đời đời giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong chừng mực mà trí khôn chúng ta có thể, chúng ta đã thoáng thấy nền tảng của hoạt động tương ứng với phụ tính của Chúa Cha, nền tảng hoạt động tương ứng với tư cách làm con của Ngôi Lời và nền tảng của ân huệ Thánh Thần tình yêu. Nhờ Ngài mà Chúa Cha và Chúa Con yêu thương chúng ta. Trong giai đoạn ba này, hoạt động sáng tạo và cứu độ của Chúa Ba Ngôi được chiêm ngưỡng dưới ánh sáng mầu nhiệm vĩnh cửu của Ba Ngôi thần linh. Cả ba giai đoạn này được mạc khải ngay trong chính Kinh Thánh.
Việc tìm kiếm “lý trí đức tin” là nỗ lực hướng đến sự hoàn thành nhiệm cục của Ba Ngôi. Nhiệm cục này là lối vào của các thánh trong sự hiệp thông hoàn hảo của Ba Ngôi diễm phúc. Còn hạnh phúc của các Thiên Thần và loài người hệ tại ở trong sự thiện vĩnh cửu là chính Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự hiệp thông với Thiên Chúa làm cho chúng ta hạnh phúc cốt ở trong việc nhìn thấy Ba Ngôi “diện đối diện” (x. 1Cr 13, 12; 1 Ga 3, 2) và ở trong sự hoàn toàn khát khao no thoả Thiên Chúa, giữa niềm vui hiệp thông với t?t cả các phúc nhân đã được tụ họp nơi Giáo hội Thiên quốc, ở bên kia điều mà chúng ta có thể quan niệm và khát mong.
Trong thị kiến này, theo một cách thức nào đó, chúng ta không thể diễn tả được, đó là chúng ta sẽ được nhìn ngắm Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần bằng đôi mắt tinh thần được tăng cường với ánh sáng thần linh, và rồi chúng ta được ở rất gần với những sự nhiệm xuất của các Ngôi Vị thần linh từ đời đời. Đồng thời chúng ta cũng được đổ tràn một niềm vui rất giống với niềm vui tạo nên hạnh phúc của Ba Ngôi rất thánh và bất khả phân[1].
Từ Vựng
Appropriation : attribution d'une réalité essentielle, d'une action divine ou d'un effet créé (communs aux trois personnes divines) à une personne de façon spéciale, en raison de l'affinité de cette réalité commune avec la propriété de telle personne, afin de mieux manifester les personnes divines à l'esprit des croyants. Par exemple, la puissance est « appropriée » au Père. L'appropriation présuppose la connaissance des propriétés distinctives des personnes.
Commun-propre : dans la doctrine trinitaire, ce double aspect exprime l'unité de substance (commun : unité de la divinité) et la distinction des personnes (propriétés : ce qui est propre à chaque personne). Notre connaissance des personnes divines s'effectue par la « combinaison » de ces deux aspects (saint Basile de Césarée).
Consubstantiel, consubstantialité : communauté de la substance divine qui est unique et identique dans les trois personnes divines (identité et non pas seulement similitude). La consubstantialité s'applique au Fils par rapport au Père (foi de Nicée), au Saint-Esprit par rapport au Père et au Fils, et elle qualifie aussi la Trinité comme telle (concile Constantinople II).
Économie (oikonomia) : les œuvres divines par lesquelles Dieu se révèle et donne de participer à sa vie, en particulier l'incarnation du Fils et le don du Saint-Esprit.
Ekporèse (ekporeusis, processio) : origine, relation et propriété personnelle du Saint-Esprit qui « procède ». Par défaut d'un autre terme, on traduit généralement le mot grec ekporeusis par « procession » (pris alors au sens spécial où ce terme désigne distinctement l'origine du Saint-Esprit et sa propriété personnelle relative).
Engendré : propriété personnelle du Fils qui consiste dans sa relation d'origine envers le Père (la filiation), c'est-à-dire dans son mode d'être relatif au Père qui l'engendre.
Eschatologie : l'étude des « réalités finales » ; ce qui concerne l'accomplissement final de l'économie divine, l'accomplissement du royaume de Dieu.
Essence : ce par quoi une chose est ce qu'elle est et se distingue des autres choses. L'essence de Dieu est sa divinité même, incompréhensible. L'essence divine est unique et identique dans les trois personnes divines.
Hypostase : la réalité substantielle concrète qui existe par soi selon un mode d'être individuel, « ce qui est et qui subsiste individuellement par soi » (saint Jean Damascène). Le mot « hypostase » désigne ce qui est réellement Trois en Dieu, la personne qui subsiste de manière propre et distincte. L'hypostase est attachée à une propriété personnelle. Dans la doctrine patris-tique, lorsque certains soupçons pesant parfois sur le terme « personne » (prosôpon) furent levés, on reconnut que « hypostase » et « personne » désignent la même réalité.
Inengendré, innascible, innascibilité : propriété du Père qui n'a pas d'origine. Le Père est « non engendré » et ne provient de personne : il est « sans principe ».
Mission : dans la doctrine trinitaire, ce terme désigne l'envoi du Fils et du Saint-Esprit dans l'économie de la grâce.
Modalisme : doctrine hétérodoxe qui tient l'unité du Père, du Fils et du Saint-Esprit en niant leur distinction personnelle réelle dans l'être divin. Pour le modalisme, les noms de Père, Fils et Saint-Esprit ne se rapportent qu'à des manières ou des modes selon lesquels le même Dieu, en lui-même indistinct, agit dans le monde. Expressions équivalentes : sabellianisme, monarchia-nisme unitarien.
Mode d'existence : mode propre qui caractérise distinctement chaque personne divine suivant sa propriété relative ; manière distincte de posséder la divinité.
Monarchie : ce terme désigne l'unique souveraineté de Dieu ; il s'oppose au polythéisme. La monarchie exprime l'unité divine en tenant compte de la distinction des personnes : le Père communique la divinité au Fils et, par le Fils, au Saint-Esprit. Dans la doctrine des Églises orthodoxes, la « monarchie du Père » désigne la caractéristique propre du Père comme « unique Cause » du Fils et du Saint-Esprit.
Nature : principe intérieur de l'opération d'un être (« principe du mouvement et du repos ») et, par extension, l'essence d'un être, ce par quoi un être est ce qu'il est. La nature divine est unique et identique dans les trois personnes.
Notion, notionnel : dans le langage technique de la théologie trinitaire, on appelle « notions » les caractéristiques qui font connaître les personnes divines. On compte alors cinq « notions » : l'in-nascibilité, la paternité, la filiation, la spiration et la procession.
Opposition : principe de distinction formelle. Les relations personnelles dans la Trinité sont « opposées » dans le sens où la personne divine qui possède telle relation ne possède pas la relation correspondante (le Père n'est pas le Fils, le Fils n'est pas le Père : la paternité et la filiation sont des relations « opposées »).
Ordre : ce terme signifie le rapport non interchangeable des personnes de la Trinité, en vertu de leurs propriétés. Cet ordre exclut la confusion des personnes. Il est manifesté par la formule du baptême et par celle du credo : Père, et Fils, et Saint-Esprit. Cet ordre n'implique ni intervalle de durée ni infériorité, mais seulement l'origine, c'est-à-dire un pur rapport de principe.
Origine : dans la doctrine trinitaire, ce mot désigne la provenance éternelle d'une personne divine, c'est-à-dire la génération du Fils et la procession du Saint-Esprit.
Périchorèse : co-immanence ou interpénétration des trois personnes divines qui sont réciproquement l'une dans l'autre.
Personne : la substance individuelle de nature rationnelle, c'est-à-dire l'individu qui subsiste par soi et qui est doté par nature de la faculté de connaître, de vouloir et d'agir librement par soi. Dans la doctrine trinitaire, le mot personne équivaut à hypostase. Les trois personnes divines sont distinguées et constituées par leurs relations personnelles (propriétés personnelles : paternité, filiation et procession).
Principe : ce à partir de quoi une chose est produite, ce dont une chose est issue, la réalité de laquelle une autre procède. Ce terme n'implique en soi ni postériorité ni inégalité entre la réalité qui procède et celle de laquelle elle est issue. Dans la doctrine trinitaire, le nom « principe » signifie un ordre d'origine : le Père est le principe du Fils, le Père et le Fils sont le principe du Saint-Esprit.
Procession : au sens commun, le mot « procession » désigne l'origine du Fils et du Saint-Esprit, c'est-à-dire la génération et l'ek-porèse (il y a « deux processions » en Dieu Trinité) ; en un sens spécial, le mot « procession » désigne distinctement l'origine du Saint-Esprit et sa propriété personnelle relative, c'est-à-dire l'ekporèse.
Propriété : caractéristique incommunicable de chaque personne divine. Ces propriétés non interchangeables sont : pour le Père,
la paternité et l'innascibilité (non engendré) ; pour le Fils, la filiation (engendré) ; pour le Saint-Esprit, la procession (ekpo-rèse). Il y a trois « propriétés personnelles », qui sont des relations personnelles et qui constituent les personnes divines : la paternité, la filiation et la procession.
Relation : rapport d'une chose envers une autre, genre de l'être qui consiste dans le fait de se rapporter à autre chose. La doctrine catholique traditionnelle reconnaît quatre relations réelles dans la Trinité, c'est-à-dire quatre relations qui rendent compte de la distinction des personnes divines : la paternité, la filiation, la spiration et la procession. Ces relations se prennent selon l'origine (par exemple, la filiation, relation du Fils, consiste dans son rapport au Père qui l'engendre) et elles comportent une « opposition » (le Fils n'est pas le Père). La paternité, la filiation et la procession, qui constituent les personnes divines et s'identifient avec ces personnes, sont appelées « relations personnelles » (saint Thomas d'Aquin).
Spiration : acte du Père et du Fils qui « soufflent » le Saint-Esprit qui procède ; « notion commune » du Père et du Fils en tant qu'ils sont l'unique principe du Saint-Esprit (c'est-à-dire : relation du Père et du Fils envers le Saint-Esprit).
Subsistence : existence par soi et en soi ; la substance individuelle sous l'aspect où elle existe par soi et non dans un autre, ce qui existe par soi et en soi. Dans la doctrine trinitaire, le mot « subsistence » (en latin : subsistentia) traduit le terme grec « hypostase » : trois subsistences.
Substance : ce qui est apte à exister en soi et non pas dans un autre. La « substance divine » désigne la réalité même de la divinité, l'essence pour ainsi dire concrète de Dieu. La substance des trois personnes divines est unique et identique. À l'unité de substance sont associées l'unité de puissance et l'unité de nature.
Théologie (theologia) : le mystère de Dieu Trinité en lui-même, le mystère des trois personnes dans la transcendante réalité de leur être divin.
Vestiges : on appelle « vestiges de la Trinité » les traces que, par son agir créateur, la Trinité créatrice a laissées d'elle-même dans tout l'univers créé.
Cùng Tác Giả
Thomas d'Aquin, Traités. Les raisons de la foi. Les articles de la foi et les sacrements de l'Église, coll. « Sagesses chrétiennes », 1999.
La Théologie trinitaire de saint Thomas d'Aquin, coll. «Théologies », 2004.
En collaboration.
Les Sources du renouveau de la théologie trinitaire au XXe siècle, coll. « Cogitatio Fidei », 2008.
L'Humain et la Personne, coll. « L'Histoire à vif», 2009.
[1]Pie XII, Lettre encyclique Mystici Corporis (1943), dans Documents pontificaux de Sa Sainteté Pie XII, vol. V : 1943, Saint-Maurice, 1962, p. 191 (trad. fse légèrement modifiée). Voir Symboles et définitions de la foi catholique (Denzinger), n° 3815. |
|