|

Tóm lược Học Thuyết Xã Hội của Công Giáo (bản gốc) 280 - 289
b. Quan hệ giữa lao động và tư bản
280. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng khắc phục được sự lệ thuộc của lao động đối với vật chất tự nó có thể giúp ta khắc phục sự tha hoá tại nơi lao động hay sự tha hoá từ chính lao động. Ở đây chúng ta không chỉ muốn nói tới vô số người không có công ăn việc làm, làm việc lén lút, lạm dụng lao động trẻ em, lao động với đồng lương rẻ mạt, tình trạng bóc lột người lao động – tất cả những điều này hiện nay vẫn còn – mà chúng ta còn muốn nói tới nhiều hình thức bóc lột mới mẻ, tinh vi hơn để khai thác những nguồn lao động mới như lao động thái quá, lao động như một nghề nghiệp nhưng lại thường được coi trọng hơn những khía cạnh nhân bản và tất yếu khác, hoặc những yêu sách thái quá về lao động khiến đời sống gia đình trở nên bất ổn, thậm chí có khi không thể chịu đựng nổi, hay một cơ chế lao động quá chuẩn mực có thể gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sự nhận thức thống nhất của con người về cuộc sống riêng của mình và sự ổn định của các mối quan hệ trong gia đình. Nếu con người bị tha hoá do đã có sự đổi chỗ giữa mục tiêu và phương tiện, thì con người cũng có thể bị tha hoá phần nào trong những môi trường mới mẻ của lao động: khi lao động mang tính phi vật chất, nhẹ nhàng chứ không còn nặng nhọc, chú ý tới phẩm chất hơn số lượng, “hoặc do người lao động càng ngày càng dính dáng vào một cộng đồng hỗ trợ hoặc do càng ngày càng bị cô lập vào một mớ quan hệ phức tạp mà đặc điểm là cạnh tranh và chia rẽ tai hại”603.
c. Quyền tham gia quản lý lao động
281. Quan hệ giữa lao động và tư bản còn được biểu hiện qua việc người lao động tham gia vào việc làm chủ, quản lý và lợi nhuận. Đây là một đòi hỏi rất hay bị bỏ qua và nay cần phải được chú ý hơn. “Dựa trên lao động của mình, mỗi người đều có tư cách xem mình là sở hữu chủ phần nào xí nghiệp rộng lớn mà tại đó mình đang cùng làm việc với mọi người khác. Có một phương cách giúp chúng ta đạt được mục tiêu ấy là kết hợp lao động với việc làm chủ tư bản, càng nhiều càng tốt, và thành lập thật nhiều các đoàn thể trung gian theo đuổi những mục tiêu kinh tế, xã hội và văn hoá. Những đoàn thể này phải được hưởng quyền tự trị thật sự đối với chính quyền, để theo đuổi những mục tiêu riêng bằng cách chân thành cộng tác với nhau và luôn đặt mình phục vụ những đòi hỏi của công ích. Những đoàn thể ấy sẽ là những cộng đồng sinh động cả về hình thức bên ngoài lẫn nội dung bên trong, khi mỗi thành viên của đoàn thể được kính trọng và được đối xử như những ngôi vị thực sự, cũng như được khuyến khích tham gia tích cực vào sinh hoạt của đoàn thể”604. Những đường lối mới nhằm tổ chức lao động, theo đó có được sự hiểu biết thì đáng quý hơn là chỉ làm chủ các phương tiện sản xuất, là dấu hiệu cụ thể chứng tỏ rằng do chủ thể tính của mình, lao động đưa chúng ta tới chỗ phải nhìn nhận quyền tham gia quản lý lao động. Cần phải nhận thức rõ điều ấy để có thể đánh giá đúng đắn vị trí của lao động trong quá trình sản xuất và để tìm ra những cách thế tham gia cho phù hợp với chủ thể tính của lao động, trong những hoàn cảnh và tình huống cụ thể khác nhau605.
d. Quan hệ giữa lao động và tư hữu
282. Huấn quyền về xã hội của Giáo Hội coi định chế tư hữu, quyền có tư hữu và quyền sử dụng tư hữu cũng là một cách biểu hiện mối tương quan giữa lao động và tư bản. Nhưng quyền tư hữu phải lệ thuộc nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải, không được biến thành lý do để cản trở lao động của người khác và sự phát triển của người khác. Tài sản, đạt đượctrước hết nhờ lao động, phải được dùng để phục vụ việc lao động. Điều này đặc biệt đúng đối với việc sở hữu các phương tiện sản xuất, nhưng nguyên tắc này cũng áp dụng cho các tài sản thuộc thế giới tài chính, công nghệ, tri thức và nhân sự.
Các phương tiện sản xuất “không thể được sở hữu để chống lại lao động, cũng không thể được sở hữu chỉ để sở hữu”606. Việc sở hữu các phương tiện sản xuất trở thành bất chính khi tài sản ấy “không được sử dụng hay được sử dụng để cản trở việc lao động của người khác, tìm cách kiếm lời mà không phải nhờ mở rộng lao động và làm giàu cho xã hội, mà chỉ nhờ hạn chế sử dụng chúng hay nhờ khai thác cách bất hợp pháp, nhờ đầu cơ hay phá vỡ tình liên đới giữa những người lao động”607.
283. Phải hướng tư hữu và công hữu, cũng như các cơ chế của hệ thống kinh tế tới một nền kinh tế phục vụ nhân loại, để chúng góp phần thực hiện nguyên tắc mục tiêu phổ quát của của cải. Đặt trong viễn tượng ấy, chúng ta mới thấy việc làm chủ và sử dụng các công nghệ mới và tri thức mới – ngày nay cũng được coi là một hình thức tư hữu không kém phần quan trọng so với việc làm chủ đất đai hay vốn liếng608, thật là quan trọng. Những tài nguyên này – cũng như mọi của cải khác – cũng có mục tiêu phổ quát; chúng cũng phải được đặt trong một khuôn khổ là những chuẩn mực hợp pháp và những quy tắc xã hội để bảo đảm cho chúng được sử dụng phù hợp với các tiêu chuẩn công lý, công bằng và tôn trọng nhân quyền. Nhờ có tiềm năng vô cùng rộng lớn, các phát minh và các công nghệ mới mẻ có thể góp phần quyết định cho sự tiến bộ xã hội; nhưng nếu chúng chỉ tập trung mãi trong tay các nước giàu hơn hay một số ít tập đoàn thế lực, chúng có thể trở thành nguồn tạo ra tình trạng thất nghiệp và làm gia tăng khoảng cách giữa các khu vực đã phát triển và chưa phát triển.
e. Nghỉ ngơi
284. Nghỉ ngơi không lao động là một quyền lợi609. Như Thiên Chúa “nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy khỏi mọi công việc mà Ngài đã làm” (St 2,2), con người, cả nam lẫn nữ, đã được tạo dựng theo hình ảnh Ngài cũng phải được nghỉ ngơi đầy đủ và được có thời gian rảnh rỗi để chăm lo cho gia đình, cho đời sống văn hoá, xã hội và tôn giáo của mình610. Việc thiết lập ngày của Chúa - Chúa Nhật - cũng góp phần vào mục tiêu ấy611. Vào các ngày Chủ Nhật và các ngày lễ buộc khác, các tín hữu phải ngưng không “tham gia lao động hay các sinh hoạt có thể cản trở việc thờ phượng Chúa, cản trở niềm vui riêng của ngày Chúa Nhật, cản trở việc thi hành các việc bác ái, cũng như sự thư giãn phù hợp cho tinh thần và thể xác”612. Nhưng các nhu cầu của gia đình và những việc phục vụ rất cần cho xã hội sẽ là những lý do chính đáng cho phép chúng ta khỏi thi hành bổn phận nghỉ ngơi ngày Chủ Nhật. Dù sao, cũng đừng để những việc ấy biến thành thói quen có hại cho đời sống tôn giáo, gia đình và sức khoẻ.
285. Chủ Nhật là một ngày cần được thánh hoá bằng các việc bác ái, bằng cách dành thời giờ cho gia đình và bà con họ hàng, cũng như cho các bệnh nhân, người tàn tật và người cao tuổi. Người ta không được quên “các anh em cũng đang có những nhu cầu và những quyền lợi như mình, lại không thể nghỉ ngơi được vì quá nghèo nàn và túng thiếu”613. Ngoài ra, Chủ Nhật còn là thời gian thích hợp để suy nghĩ, yên tĩnh, học hỏi và suy niệm, giúp tăng trưởng đời sống nội tâm của người Kitô hữu. Các tín hữu cũng cần biểu lộ sự khác biệt của mình trong ngày ấy bằng thái độ chừng mực, tránh những gì thái quá và chắc chắn phải tránh những gì là bạo lực mà các cuộc vui tập thể đôi khi dẫn tới614. Các tín hữu nên luôn sống ngày của Chúa như một ngày mừng sự giải thoát để có thể tham dự vào “cuộc hội họp và đại hội tưng bừng của những con cái đầu lòng đã được ghi tên trên thiên đường” (x. Dt 12,22-23), nhờ đó, họ tham dự trước cuộc cử hành Vượt Qua sau cùng trong thiên đường vinh quang615.
286. Chính quyền có nghĩa vụ phải bảo đảm cho các công dân của mình không bị mất thời gian nghỉ ngơi và sự thờ phượng Thiên Chúa chỉ vì những lý do sản xuất kinh tế. Các chủ nhân cũng có bổn phận tương tự đối với các công nhân của mình616. Vì sự tự do tôn giáo và vì ích chung của mọi người, các Kitô hữu cần tìm cách làm cho ngày Chủ Nhật và các ngày lễ lớn của Giáo Hội được công nhận như những ngày nghỉ hợp pháp. “Họ phải cho mọi người thấy một mẫu gương công khai về cầu nguyện, tôn trọng và vui tươi của mình, và phải tìm cách bảo vệ các truyền thống của mình như một cách đóng góp quý giá vào đời sống tâm linh của xã hội”617. “Mỗi Kitô hữu cần tránh đưa ra những yêu sách không cần thiết trên người khác, khiến người khác không thể tuân giữ Ngày của Chúa”618.
IV. QUYỀN LAO ĐỘNG
a. Lao động là cần thiết
287. Lao động là một quyền căn bản và là một điều tốt cho loài người619, một điều vừa hữu ích vừa xứng đáng với con người, vì đó là một phương cách thích hợp cho con người bày tỏ và nâng cao phẩm giá của mình. Giáo Hội tuyên bố lao động có giá trị không phải chỉ vì lao động luôn luôn là một điều thuộc về con người, mà còn vì tự bản chất lao động là một điều cần thiết620. Lao động cần thiết để hình thành và bảo vệ gia đình621, cần thiết để thực hiện quyền tư hữu622, cần thiết để đóng góp vào ích chung của gia đình nhân loại623. Khi xem xét các hệ luỵ luân lý mà vấn đề lao động đặt ra cho đời sống xã hội, Giáo Hội không thể không nêu rõ thất nghiệp là một “thảm hoạ thực sự của xã hội”624, nhất là đối với các thế hệ trẻ.
288. Lao động là một điều tốt thuộc về hết mọi người và phải làm sao cho công ăn việc làm có sẵn cho tất cả những ai có khả năng thi hành. Bởi đó, “tạo công ăn việc làm đầy đủ” vẫn là một mục tiêu đòi buộc cho mọi hệ thống kinh tế hướng tới công lý và công ích. Một xã hội, trong đó quyền lao động bị đe doạ hay bị phủ nhận một cách có hệ thống, và một xã hội, trong đó các chính sách kinh tế không cho phép người lao động có được công ăn việc làm thoả đáng, đều “không thể được bênh vực theo quan điểm đạo đức, cũng không thể tìm được sự an bình trong xã hội”625. Vai trò quan trọng, và từ đó dẫn đến trách nhiệm hết sức nặng nề, trong lĩnh vực này là của các “chủ nhân gián tiếp”626 – tức là cá nhân hay tổ chức khác nhau – đang ở trong vị thế điều khiển, ở cấp quốc gia hay quốc tế, các chính sách liên quan đến lao động và kinh tế.
289. Khả năng hoạch định của một xã hội hướng tới công ích và lưu ý đến tương lai được đo lường chủ yếu dựa vào triển vọng công ăn việc làm mà xã hội ấy có thể cung ứng. Mức thất nghiệp cao, các hệ thống giáo dục bất thường, những khó khăn dai dẳng để được đào tạo nghề nghiệp và để bước vào thị trường lao động, đặc biệt đối với nhiều người trẻ, chính là một trở ngại rất lớn trên con đường hoàn thiện con người về mặt nhân bản và chuyên môn. Thật vậy, những người thất nghiệp hay không được tuyển dụng đúng phải chịu những hậu quả tiêu cực rất sâu xa do tình trạng ấy tạo ra trong nhân cách của mình và họ có nguy cơ bị gạt ra bên lề ngay trong xã hội của họ hoặc có nguy cơ trở thành nạn nhân của một sự khai trừ do xã hội627. Nói chung, đây là bi kịch tác động không những đến người trẻ, mà cả các phụ nữ, những người lao động ít chuyên môn, những người thiếu khả năng, những người di cư, những người thất học, nghĩa là tất cả những ai phải khó khăn hơn để kiếm việc làm trong thị trường lao động.
|
|