Love Telling ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn Cha cố Phêrô (Ns. Kim Long) được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen! Loan Pham nhắn với ACE: Giêsu Maria Giuse, con mến yêu xin thương cứu rỗi linh hồn Phê-rô Lm. Kim Long sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa. Amen Loan Pham nhắn với ACE: Hòa cùng với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam với sự ra đi của Lm. Kim Long là Nhạc sĩ quý mến của chúng ta...đó là sự thương xót mất mát rất lớn của Thánh Nhạc Việt Nam... chúng ta hãy cùng dâng lời nguy Loan Pham nhắn với Gia đình TCVN: Hòa cùng Giáo Hội Công giáo Việt Nam với sự ra đi vô cùng thương tiếc của Lm. Kim Long là nhạc sĩ Thánh Ca thân yêu của chúng ta... Chúng ta cùng dâng lời nguyện xin: Giesu Matia Giuse xin thương cứu rỗi linh ThanhCaVN nhắn với ACE: Nhân dịp Sinh Nhật lần thứ 18 Website, BQT-TCVN kính chúc Quý Cha, Quý Tu sỹ Nam Nữ, Quý Nhạc sỹ - Ca trưởng – Ca sỹ, Quý Ân Nhân và toàn thể ACE luôn tràn đầy HỒNG ÂN THIÊN CHÚA. ThanhCaVN nhắn với ACE: Chúng con cậy vì Danh Chúa nhân từ, xin cho Linh hồn ĐTC Phanxicô được lên chốn nghỉ ngơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng. Amen!

kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Chủ đề: Chiến Tích lẫy lừng của Phong Trào Văn Thân

Threaded View

  1. #6
    teenvnlabido's Avatar

    Tham gia ngày: May 2011
    Tên Thánh: Giuse
    Giới tính: Nam
    Đến từ: HCM city
    Quốc gia: Vietnam
    Bài gởi: 927
    Cám ơn
    1,503
    Được cám ơn 2,005 lần trong 603 bài viết

    Default

    Trích dẫn tiếp:

    Cái ngu dốt của Văn-thân
    :

    * Về chính trị và tư tưởng:

    "Ngu dốt" là từ của giáo sư Trần Văn Giàu đã dùng để phê phán những "nhận định sai, rất sai (của đình thần) về ý đồ của địch (Pháp), xem quá nhẹ nguy cơ xâm lược". Ông viết: "Nhóm đình thần này ngỡ rằng nước Pháp ở xa nước ta quá, không thể thôn tính nước Nam được. Dốt quá! (x. Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt- nam, tập I, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, nxb T.P.Hồ Chí Minh, 1993, tr. 434). Giáo sư Giàu còn viết thêm để giải thích ý nghĩa của từ "dốt" mà ông đã dùng: "ếch nằm đáy giếng nào biết vũ trụ rộng lớn ra sao, nhà nho lúc đó không ai biết tư bản Âu Mỹ là gì." (Sđd, tr. 434). Không biết bây giờ có ai hiểu rõ chủ nghĩa tư bản Âu Mỹ chưa, nhất là chủ nghĩa tư bản Mỹ, nhưng quả thật vào năm 1858, đình thần Huế thật sự là xứng đáng với lời phê nghiêm khắc của giáo sư Trần Văn Giàu. Ấy là giáo sư phê phán bọn đình thần, những nhân vật lịch sử tiếng tăm như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng, Trần Văn Trung, Phạm Chí Hương, Nguyễn Xuân Hàn, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Luân, Lê Đức. Nhóm đình thần tả hữu của vua như quí ông Vũ Đức Nhụ, Phạm Thanh, Nguyễn Khắc Cần, Phạm Xuân Quế cũng không tránh được hai chữ khờ khạo (sđd, tr. 435) khi họ đề nghị với nhà vua nếu quân Pháp tự ý rút lui thì ta cho giảng hoà. Thật "không còn khờ khạo nào hơn", giáo sư Giàu quả quyết. Sau khi liệt kê một danh sách đình thần thiển cận với những nhận định sai lầm trầm trọng về thời thế như quí ông Lê Chỉ Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Đạo, Nguyễn Hải, giáo sư Giàu giận dữ viết: "Cả triều đình ngu dốt". (Sđd, tr. 436).

    Giáo sư Giàu còn bình luận về vụ nổi dậy của phong trào Văn-thân năm 1874 ở Nghệ An. Ông viết: "Không thể chối cãi rằng phong trào 1874 ở Nghệ Tĩnh là phong trào yêu nước, do Văn-thân yêu nước khởi xướng. Nhưng cũng không thể chối cãi rằng các nhà Văn-thân yêu nước đã làm những điều rất sai chính trị khi họ xem việt 'sát Tả' là điều kiện thứ nhất của việc 'bình Tây', không biết phân biệt giáo dân bình thường và những giáo sĩ làm tay sai cho giặc Pháp. Họ vơ đũa cả nắm, và vô tình họ đẩy tất cả những người đạo đồ Thiên Chúa qua một bên, bên giặc Pháp. Họ đặt nhiệm vụ 'gìn giữ văn minh Nho giáo' cho cuộc vận động, như thế là bó hẹp quá, là hạn chế quá cái ý nghĩa của cuộc vận động, ý nghĩa đó là cứu nước Việt-nam, chớ nào chỉ bảo vệ riêng một đạo nào, bất kỳ Nho giáo, hay Phật giáo, hay Lão giáo. 'Bình Tây' chỉ chắc mọi người dân đồng ý, còn 'sát Tả' thì vị tất người dân thường đã nhất trí bằng lòng; các nhà Văn-thân khởi nghĩa vô hình trung đã tự cô lập mình, càng dễ bị triều đình đánh dẹp." (Sđd, tr. 369).

    Giáo sư họ Trần quả đã nhận xét sâu sắc và chuẩn xác về chính sách của phong trào Văn-thân. Làm chính trị trước tiên là phải hô hào và thực hiện đại đoàn kết các lực lượng đấu tranh thì phong trào của mình mới phát triển mạnh mẽ và mới sớm đạt được những mục tiêu đề xuất. Phải công nhận rằng nhóm Công giáo thời đó có nhiều điểm mạnh, mà điểm mạnh nhất của họ là họ thấu triệt tình hình quân sự, kĩ nghệ, thương mại trên thế giới; họ đã một phần nào hấp thụ văn hoá châu Âu, hiểu thế nào là dân chủ, tự do, là cá nhân, xã hội, là khoa học kĩ thuật. Nếu thuyết phục được họ tham gia hàng ngũ chiến đấu thì làm sao bọn thực dân có thể thực hiện âm mưu xâm lược của chúng được. Cứ xem cụ Sáu dẹp giặc Phụng năm 1861 thì thấy rõ. Năm 1869, Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình hưng binh đánh Pháp để giành lại Lục tỉnh, ông Tộ tình nguyện tự thân cầm quân đánh giặc vì ông biết vào năm 1870, Đức sẽ cất quân đánh Pháp và Pháp sẽ thất bại. Một đề nghị sáng suốt như vậy không được ai nghe theo, chỉ vì ông Tộ là một người theo đạo Gia-tô. Trong khi đó các ông Văn-thân chỉ lừa bịp dư luận bằng một lực lượng tưởng tượng. "Văn-thân bốn tỉnh báo cho Tự Đức biết rằng, chẳng những họ có nhân tài lãnh đạo đầy mưu lược, mà cũng đã có số quân cần thiết để giết hết giặc, lấy lại non sông: 10 vạn quân bộ, 6 ngàn quân thủy, 5 ngàn ngựa thám-tử, tất cả đều thiện chiến, lấy quân đó mà đánh giặc thì ai mà thắng được?" (Sđd, tr. 454). Giáo sư Giàu mỉa mai: "Không biết các cụ tìm đâu ra số quân đó, hay chỉ muốn báo cho nhà vua biết rằng: Hoan Diễn do tồn thập vạn binh". (Sđd, tr. 454). Nghĩa là chỉ nói thánh, và nói theo sách vở chứ không có gì là thực tế! Thế mà Văn-thân vẫn còn nói lấy được: "Ta mạnh như sông dài núi cao, trống chiêng đánh lên một tiếng đủ làm tan được súng phá trời của chúng, thẻ linh bài gõ lên tiếng đủ làm đắm được thuyền rẽ nước của chúng". Lời phê của giáo sư Giàu: "Văn-thân bốn tỉnh hay chữ này có cách nói của nhà nho có thể làm cho người đời sau hiểu lầm là thùng rỗng kêu lớn." (nt)

    * Về văn-học:

    Giáo sư Trần Văn Giàu không đề cập tới khả năng văn chương của giới Văn-thân, nhưng những điều ông thẩm định về giá trị tư tưởng cũng như ý thức của giới này cũng đủ cho ta thấy rõ quan niệm của ông về giới Văn-thân. Ta sẽ thấy rằng tư tưởng nào, văn chương ấy; nội dung gì, hình thức đó, cho nên tư tưởng đã nghèo nàn thì văn chương không thể phong phú được; nội dung đã nông cạn thì hình thức không thể đa dạng được. Ta thử phân tích một số bài thơ của giới tú tài Văn-thân để chứng thực rằng trong tay họ, văn học Việt-nam rực rỡ từ ngàn xưa đã bị xuống cấp như thế nào. Ta sẽ lần lượt nói tới Trần Tấn là thủ lãnh của phong trào Văn-thân năm 1874, đến Nguyễn Duật tức tú Uyển, Nguyễn Mậu Bẩm tức tú Bẩm, Nguyễn thị Quyên vợ tên Văn-thân Trần văn Ý tức tú Ý Đậu Bá Nghinh tức tú Ngông, Lê Mẫn Đức tức tú Đức. Tiếc rằng ta không có văn thơ của những tay Văn- thân nổi tiếng như Trần Quang Cán tức đội Lựu, hay Đặng Như Mai tức tú Mai, học trò của Trần Tấn và của Võ Trọng Bình.
    Trần Tấn ( 1822?-1874): là người làng Chi-nê, nay là xã Thanh-chi, huyện Thanh-chương. Trần Tấn đỗ tú tài năm 1842, rồi được bổ làm Bang biện Thanh-chương nên thường được gọi là tú Tấn hoặc cố Bang. Năm 1873, Pháp chiếm Hà-nội và các tỉnh Bắc kì, tú Tấn cùng người học trò là Đặng Như Mai tức tú Mai đòi tổng đốc Nghệ- an là Tôn Thất Triệt họp Văn-thân bàn việc chống Pháp. Triều đình Huế kí hàng ước Giáp-tuất (1874) làm cho ông bất bình, cùng tú Mai, đội Lựu (Trần Quang Cán), tú Khanh (Nguyễn Huy Điển) đứng lên khởi nghĩa, thảo bài hịch Bình tây sát tả bằng chữ hán và Bài ca kêu gọi khởi nghĩa bằng chữ nôm. Bài thơ ca tụng Trần Quang Cán nhiều bản không đề tên tác giả, nhưng xét về nội dung và hình thức có thể đoán đó là tác phẩm của Trần đại lão khóc học trò, bởi vì ngoài thầy học cũ là tú Tấn, đội Lựu không có một ai có thể gọi là thân.

    Bài hịch Bình tây sát tả mang một nội dung rất rõ ràng, phải giết hết bọn Công giáo trước rồi mới thanh toán bọn Pháp sau. Toàn thể bài hịch bốc lên một nỗi căm thù sôi sục đối với giáo dân và giáo sĩ. Không nghi ngờ gì nữa, động lực thúc đẩy nhóm Văn-thân đứng lên khởi nghĩa là sự uất hận của họ đối với đạo Công giáo đã được phổ biến quá mạnh mẽ ở Việt-nam và đã nghiễm nhiên biểu lộ ý chí muốn cạnh tranh với ảnh hưởng của Nho giáo đối với phong tục và văn hoá. Đối với Trần Tấn nói riêng và phong trào Văn-thân nói chung, việc bảo vệ các giá trị truyền thống dân tộc nằm ở vị trí trọng tâm của mọi hoạt động. Không ai nghĩ đến việc tiếp thụ kiến thức Tây phương. Sự phục tòng của giới nho sĩ vào học thuyết của Khổng-tử là triệt để đến mức giáo điều, đến nỗi người ta không cảm thấy nhu cầu phải tìm ra một khẩu hiệu khả dĩ có thể qui hoạch được một hướng đi lên cho đồng bào, vận động mọi người thức tỉnh trước những biến đổi của thế giới, và phát hiện ra cho bằng được một nếp suy nghĩ riêng cho Việt-nam. Sự hận thù đối với đạo Công giáo bắt nguồn ở chỗ nó là một tôn giáo hướng về tương lai, mà đạo Khổng thì chỉ biết trở về quá khứ, mà khốn nạn thay cái quá khứ xa xôi này lại cũng không phải là của dân Việt-nam mà là của Trung quốc! Thế mà khi nói về Công giáo, Văn-thân đã sử dụng một ngôn ngữ cực kì vô lễ, nào là gọi người đi đạo là "bọn đui, bọn điếc, bọn ngu", hoặc tệ hơn nữa "bọn chó, bọn dê, bọn cừu". Công giáo bị kết án nặng nề: "Chúng đầu độc chúng ta để biến nước ta thành một nước Thiên Chúa giáo; chúng xem các ông cha bà mẹ của giống nòi chúng ta như heo chó. Chúng làm nhục đạo đức Khổng giáo". Cuối cùng, bài hịch được chấm dứt bằng những lời lẽ hùng hồn kêu gọi các nhân sĩ đứng lên hành động để tiêu diệt hết giáo dân và giáo sĩ, không trừ một ai, và như thế mới là anh hùng, thấy điều bất nghĩa phải chống trả kịch liệt. Có một điều mâu thuẫn đến hoạt kê là trong bài hịch được nhan đề là Bình tây sát tả, nhưng suốt cả bài không thấy có một chữ động đến bọn thực dân xâm lăng; toàn bài đề cập đến một hành động duy nhất là mạ lị tàn bạo người Công giáo và hô hào tàn sát tiêu diệt họ. Căn cứ vào nội dụng của bài hịch, tôi xóa bỏ chữ bình tây và tôi chỉ gọi bài văn này là Hịch sát tả.

    Trong bài Bài ca kêu gọi khởi nghĩa viết bằng chữ nôm, theo thể lục bát, Trần Tấn còn nói rõ hơn nữa về mối thù trầm trọng của ông đối với Công giáo. Ông viết:

    Vì thằng tả, giận thằng Tây,
    Tuốt gươm chém sạch trận này mới nghe. (Bđd, cc 21-22)
    Bọn "thằng tả" này là kẻ thù không đội trời chung của ông và của Văn-thân:

    Một niềm nhương địch an dân,
    Càn khôn giãi tỏ, quỉ thần chứng tri. (Bđd, cc 27-28).

    Phần còn lại của bài ca dành để kêu gọi nho sĩ "ào ào tiến lên" (c.34). Ông vạch mặt chỉ tên những quan viên "ngu si" và chỉ "lo lòng nặng túi, tưởng chi đạo người" (c. 30); ông cảnh cáo những người làm quan nếu họ phản phúc đi ngược lại quyền lợi của Văn-thân thì họ sẽ bị đào thải:
    Sao mà nghĩ chẳng tới nơi,
    Giở giăn rồi lại cân đai được nào! (cc 31-32).

    Bài ca gồm tất cả 36 câu lục bát, không dở nhưng không có gì đặc sắc. Nếu đối tượng là độc giả bình dân ít học thì bài này còn có đôi chút giá trị vì đó là một bài văn phổ thông, chữ dùng đơn giản, nhiều chỗ toàn nôm ròng, điều mà người bình dân rất ưa thích. Nhưng bài này là một bài ca kêu gọi nhân sĩ ào ào tiến lên để tuốt gươm chém sạch những thằng tả, như vậy đối tượng đâu có phải là giới bình dân. Người có đầu óc văn chương và có thêm đôi chút chữ nghĩa hẳn là không thích lối văn mộc mạc này, từ ngữ nhiều chỗ rất sáo, hình ảnh hoàn toàn vắng mặt, có đoạn lại lạc vần.

    Tóm lại, đọc trước tác của Trần Tấn, ta hiểu tại sao ông lãnh tụ phong trào Văn-thân này chỉ động viên được có một thiểu số đi theo ông để tìm giết hại người Công giáo. Vì không có mấy người được ông thuyết phục cho nên số nhân sĩ hưởng ứng lời kêu gọi của ông rất thưa thớt, chỉ toàn là học trò không thành đạt của ông và những người bạn đi thi trượt của họ, tỉ dụ tú Uyển, tức Nguyễn Duật.

    Nguyễn Duật, hay tú Uyển đã đỗ tú tài thời Thiệu Trị nhưng ông không bằng lòng với học vị tú tài tầm thường. Ông gắng sức thi lại nhiều lần đến nỗi tuổi đã 70 mà ông vẫn vác lều chõng đi thi. Tú Uyển là một Văn- thân điển hình về nỗ lực muốn chiếm đoạt những học vị cao hơn tú tài không những là để xây dựng sự nghiệp mà là còn quyết giải toả mặc cảm tự ti do học vị tú tài gây ra vì ai cũng thấy rằng trong xã hội trọng khoa bảng ngày xưa, chỉ đỗ được cái bằng tú tài là cả một sự ô nhục. Tú Uyển để lại cho đời hai bài văn thì cả hai đều viết về vấn đề thi cử, đó là bài Hỏng thi và bài Nhị liệt phú, cả hai đều viết bằng chữ nôm.
    Bài Hỏng thi được làm theo thể hát nói đủ khổ, trong đó tác giả cho biết khoá thi ấy có tất cả hơn 3.800 sĩ tử. Tâm sự của người đi thi là:

    Bất truy thi văn chí
    Ninh tri bạch thủ tâm.

    Nghĩa là "Không đeo đuổi cái chí học văn chương thì làm sao hiểu được tâm sự của người đầu bạc". Người đầu bạc là tú Uyển. Lần thi cuối cùng, ông đã 70 tuổi, đầu bạc trắng, nhưng ông vẫn "mang chiếc lều mực thước rắn tay già" (c.3). Ông cũng làm bài thi như ai, nhưng mắt ông đã mờ nhìn gì cũng không thấy rõ, cái ngòi bút của ông có lẽ nó cũng già như ông cho nên nó rơi ra lúc nào không biết. Thế là ông bị đánh hỏng. Tuy không đỗ nhưng ý chí của ông rất mạnh. Ông dõng dạc tuyên bố: "Tuổi tuy già mà chí chẳng già đâu (c.14). Ông hẹn: "Khoa này rồi lại khoa sau" (c.15).
    Đọc bài hát nói này, ta có thể xúc động. Không phải vì bài thơ hay, nhưng vì sự quyết chí thi đỗ của tác giả.
    Bài Nhị liệt phú kể lại khoá thi năm 1848. Đây là một ân khoa để đánh dấu năm vua Tự Đức mới lên ngôi, vì năm 1849, năm kỉ-dậu, mới là chính khoa. Bài phú gồm 8 câu, chia làm 6 đoạn, mỗi đoạn có vần khác nhau. Đây là một bài phú hay, nói lên được ý chí quyết thắng của tú Uyển. Ông thành công ở chỗ đã làm cho người đọc sôi nổi cái sôi nổi của ông, hăng hái cái hăng hái của ông, nhưng đồng thời ta cũng thương cho ông là suốt bài phú, ông chỉ đề cập tới việc học việc thi một cách thụ động, không thấy ông đưa ra được một tư tưởng gì độc sáng và có giá trị cá nhân. Bài văn của ông chỉ là một bản tham luận của cấp tú tài, và suốt đời ông chỉ giẫm chân ở học vị ấy, lúc thì làm ông kép, khá hơn thì làm ông mền, rồi lại làm ông mền kép, để rồi cuối cùng lại làm ông mền kép mền, suốt đời luẩn quẩn loanh quanh trên các con đường rầy lội của đồng quê, lạnh lùng cam chịu một cuộc sống mòn trong cái tước hiệu Văn-thân mà ông cho là ô nhục.

    Nguyễn Mậu Bẩm, nhà Văn-thân sống lâu trăm tuổi từ thời Minh Mạng, Thiệu Trị đến Tự Đức, Vì ông đỗ tú tài cho nên dân chúng Nghệ An gọi ông là tú Bẩm hay cố Dặc. Thơ ông hoàn toàn không có giá trị nghệ thuật. Cách dùng chữ lỏng lẻo, luộm thuộm. Lời thơ không có chất thơ. Hình ảnh gợi lên chỉ là những sáo ngữ. Qua những bài thơ của ông, ta thấy được sự nghèo nàn của Văn-thân về tư tưởng, sự bất lực của họ trước những vấn đề lớn của tinh thần sáng tác, sự bất động của họ trong quá trình phát triển náo nức sôi sục của cuộc sống mới đang biến dạng hằng ngày và đang đe dọa đưa xã hội Việt-nam vào con đường phá sản. Cũng vì thế mà Văn-thân căm ghét những người Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, cụ Sáu và những nhà nho tiến bộ như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Bùi Viện.v.v... vì những nhân vật này không say mê Khổng giáo như họ và chỉ lăm le thay thế Khổng giáo, hay nói đúng hơn Tống nho, bằng một một hệ ý thức khác mà họ sợ là ý thức Thiên Chúa giáo. Họ không bao giờ hiểu được rằng nước Chúa không phải là thế gian.

    Lê Mẫn Đức: Có người gọi ông là Lê Đức, có sách lại chép tên ông là Lê Đức Mẫn, tự Trương quân, đỗ tú tài giỏi thơ văn lại giỏi nghề thuốc. Ông là bạn thân của Nguyễn Huy Điển tức tú Khanh, một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Văn-thân năm 1874. Được vua Tự Đức vời vào cung làm thuốc, ông giao du với Tùng- thiện-vương Miên Thẩm, được ngâm vịnh trong phủ của vương và được vương kính trọng. Ông có 3 tác phẩm vừa hán vừa nôm, đó là Quỳnh trai tập, Qui điền tập, Mộng viên tập.
    Một tác phẩm khác của ông, Khuê huấn quốc ngữ ca, dài 56 câu lục bát và 2 câu thất ở đầu bài, tú Đức đã dạy con gái phải tôn trọng tứ đức của nho phong là công dung ngôn hạnh.

    Tứ đức đi với tam tòng là khuôn vàng thước ngọc của nền luân lí Nho giáo. Phụ nữ trong xã hội Nho giáo là một thành phần không có pháp tịch, bị miệt thị, bị khinh khi, bị coi là hèn hạ. Luật tam tòng tỏ ra tuyệt cùng phi lí vì nó phủ nhận mọi quyền tự do của người phụ nữ, bắt buộc người đàn bà suốt đời phải lệ thuộc vào quyền điều khiển của đàn ông. Luật thất xuất còn tàn nhẫn hơn nữa vì nó tuyệt đối phủ nhận toàn bộ quyền lợi của giới đàn bà. Khi tú Đức bắt chính con gái mình phải triệt để tôn trọng những giá trị trên, ông đã thực sự lạc hậu so với những nhà văn của các thế kỉ trước, những tác giả vô danh của biết bao nhiêu truyện ngắn truyện dài đề cao tính tự do của giới phụ nữ về tình yêu và hạnh phúc cũng như quyền bình đẳng tuyệt đối của các bà bên cạnh các ông.

    Đậu Bá Nghinh tức tú Ngông, một nhà thơ trào phúng danh tiếng của giới Văn-thân, tài ba không kém tú Xương nhưng chỉ vì quá sùng bản và bất công đối với các hệ ý thức khác Nho giáo mà ông ít được truyền tụng, trừ bài Chúc thọ vua Tự Đức viết theo thể hát giặm được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân nhờ tính sòng phẳng của nội dung và tính phong phú đa dạng của hình thức.

    Tác phẩm này được viết năm 1878, nhân dịp vua Tự Đức tổ chức lễ ngũ tuần đại khánh, mùa xuân năm Quí-dậu. Có lẽ bài chúc thọ này không được gửi đến để mừng thọ nhà vua, nhưng nếu có nhận được, chắc vua Tự Đức cũng không giận, như tác giả đã rào đón, trước cái trò "dân dại dân ngu, gửi lời chúc thọ thiên thu" (cc 84-86).
    Lời chúc thọ của tú Ngông dâng lên vua Tự Đức thực chất chỉ là những lời nói móc họng, nhưng cũng nhờ đó mà ta được biết thái độ chính trị của nhóm Văn-thân đối với chính sách cai trị và ngoại giao của nhà vua. Hiển nhiên là Văn-thân đứng vào phe chống đối, nhưng đó chỉ là một thái độ chống đối tiêu cực rất tai hại cho tiền đồ của nước nhà. Đã không đồng ý với chính trị của nhà vua, tại sao Văn-thân không phân tích cho nhà vua thấy tình hình của đất nước trước cục diện thế giới như những ông Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đinh Văn Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Đình, Phan Liêm, Trần Tiễn Thành, Nguyễn Tư Giản, Vũ Phạm Khải, Trần Bích San đã làm, mà chỉ viết lách lung tung và ăn nói xỏ xiên. Như thế chỉ làm cho tình hình xã hội bi thảm hơn chứ có giúp được gì cho nhà vua! Nếu không trước tác được đàng hoàng thì ít nhất cũng nên bắt chước ông Hoàng Tam- đăng tập hợp học sinh và đồng bào thành đội ngũ trực diện với quân xâm lăng, hay theo gương của các anh hùng Cần-vương sau này nhất loạt nổi dậy để đánh đuổi thực dân Pháp.

    Trong bài chúc thọ, tôi lưu ý đặc biệt đến 3 câu 47, 48, 49:

    Rồi cụ xứ nhà thầy,
    Thôi nhà chung đi cả.
    Thôi đạo đường đi cả.

    Nghĩa là, nói một cách khác, nhóm Văn-thân chỉ mơ ước có một chuyện duy nhất là làm sao cho bọn Công giáo chết hết đi thì họ mới ăn ngon ngủ yên được! Và may ra họ mới để tâm vào vấn đề giải quyết những bài toán mà thời cuộc đặt ra cho họ. Vào năm 1878 này, Nguyễn Trường Tộ đã chết được 7 năm, Vũ Phạm Khải 6 năm, Trần Bích San 1 năm.v.v.. mà không thấy có một Văn-thân nào thay thế vào những chỗ trống ấy. Thế mới biết Văn-thân chỉ là một nhóm phá hoại chứ không phải là một tổ chức có chương trình xây dựng đất nước có qui mô. Ta cũng nên biết rằng vào năm 1866, chính vua Tự Đức đã theo lời đề nghị của tam nguyên Vị-xuyên sử dụng một nhân tài kiệt xuất của đất nước thời đó là Nguyễn Trường Tộ. Sau khi Pháp đại bại năm 1870 trước sự tấn công của Đức đúng như lời tiên đoán của Nguyễn Trường Tộ thì vua Tự Đức bắt đầu suy nghĩ về thực lực và kinh tế của Pháp, rồi khi họ Nguyễn qua đời, nhà vua bắt đầu tự xây dựng cho mình một chính sách riêng đối với sự đe dọa của Pháp. Từ năm 1877 trở đi, nhà vua đã biết nặng lời quở trách các quan về sự thiển cận của trí tuệ họ trước những vấn đề thời cuộc. Nhà vua bắt đầu lãnh đạo triều đình trong nỗ lực chống lại áp lực xâm lăng của Pháp. Nhà vua thỉnh cầu các quan phải là những Gia- cát Khổng-minh thì mới phân tích đúng tình hình và mới tìm ra được những biện pháp thích đáng để đương đầu với kẻ thù. Đến năm 1878 mà Văn-thân còn mỉa mai trách khéo nhà vua đã bất lực không giải quyết được những vấn đề của thời đại thì sự thực, so sánh với nhà vua, các ông Văn-thân còn thua nhà vua rất xa về sự bén nhậy trước tình hình chính trị, mặc dầu vua Tự Đức cũng không phải là một nhà chính trị tài ba gì.

    Nguyễn thị Quyên (1830-1897?): Bà là con gái út của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ (1788-1858), lí thuyết gia của vua Minh Mạng, tác giả bài Kẻ sĩ phổ biến năm 1833 là tuyên ngôn của chính sách văn hoá Việt-nam do triều đình chủ trương. Bà Quyên là vợ tú tài Trần Văn Ý, một Văn-thân, nên thường được gọi là bà tú Ý.
    Là con gái của một nhà đại trước tác và đại kinh doanh, bà tú Ý không kế thừa được những tư tưởng lớn và những hoạt động dinh điền vĩ đại của cha. Bà chỉ học được ở cha bài học "cầm chính đạo để tịch tà cự bí" (Kẻ sĩ) mà tà với bí bà chống không phải là Dương Mặc, mà chính là Công giáo.

    Qua bài Nhắn cố đạo Tây, bà tú Ý cho rằng tất cả những tư tưởng và học thuyết của đạo Công giáo là thừa, là vô dụng. Bà rõ ràng có thiện chí bảo vệ các giá trị của Nho giáo vốn tồn tại lâu dài nhờ vào một hệ thống tổ chức ăn khớp với nhu cầu an ninh, khả năng lí trí và quan hệ tình cảm giữa mọi thành phần trong xã hội. Nó có tính nhập thế mạnh mẽ và có tiềm năng thấm sâu vào cốt tủy của nhiều loại hình văn hoá, đặc biệt là văn hoá Việt-nam. Tuy nhiên, vì tính hoàn chỉnh của nó, Nho giáo thường nặng nề trong tư thế biến hoá để thích nghi với những tình huống mới, do đấy mà nó dễ bị co rúm trong tính thủ cựu, độc tài, chấp nhất và nhiều khi phản động. Ngay việc bà tú Ý xua đuổi các nhà truyền giáo tây phương về nước họ là một hành động áp bức tư tưởng tàn nhẫn. Nó bị nhiễm độc tố giáo điều. Nó khước từ mọi đối thoại tự do, dân chủ. Nó bóp nghẹt mọi toan tính phê phán, nỗ lực bao dung, mọi "hoài bão sáng tạo mới", đúng như nhận xét của giáo sư Hồ Lê trong bài báo Cái hay và cái dở của Nho giáo, đăng trong tập san 5 năm Hán Nôm 1991-1995 do Trung tâm nghiên cứu hán nôm xuất bản, 1995, tr. 166-170.

    Bài thơ này còn chứng thực rằng vì thiếu hẳn tác dụng thẩm thấu đối với các trào lưu tư tưởng khác, phong trào Văn-thân khép kín mọi cửa ngõ ra vào, nó không thu nhận được bất cứ một luồng ảnh hưởng nào từ bên ngoài tới, và rồi chính nó cũng bị ngạnh kết dần dần trong cái vỏ cứng nhắc của nó, để rồi chết dần chết mòn trong sự cô độc lạnh lùng.



  2. Được cám ơn bởi:


Quyền hạn của bạn

  • Bạn không được gửi bài mới
  • Bạn không được gửi bài trả lời
  • Bạn không được gửi kèm file
  • Bạn không được sửa bài

Diễn Đàn Thánh Ca Việt Nam - Email: ThanhCaVN@yahoo.com