|
-----------Cha Brian Kolodiejchuk, một trong 3 vị cộng tác mở ngành nam cho Dòng Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa, cũng là vị linh mục cáo thỉnh viên trong tiến trình mở án phong chân phước cho Mẹ, đã nghiên cứu (hồ sơ phong thánh gồm 80 cuốn sách), và đã tiết lộ cho biết trong cuộc phỏng vấn với Màn Điện Toán Zenit (bài phỏng vấn đã được Zenit phổ biến ngày 20/12/2002) như sau.
-----------Vấn: Trong những tháng gần đây vấn đề “đêm tối tăm” đã được đề cập tới, một thứ đêm tôí tăm mà Mẹ Têrêsa, như những nhà thần bí, đã trải qua trong những giai đoạn quan trọng của đời sống Mẹ. Đêm tối tăm này xẩy ra như thế nào?
-----------Đáp Hoa trái thiêng liêng phát xuất từ hy sinh, từ thập giá. Trước khi được soi động thực hiện công cuộc của mình, Mẹ đã trải qua đêm tối tăm rồi. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng “đêm tối tăm” này, nỗi khổ đau nội tâm này, là hoa trái của việc Mẹ hiệp nhất với Chúa Kitô, như đã từng xẩy ra nơi Thánh Têrêsa Avila hay Thánh Gioan Thánh Giá. Một mặt là mối hiệp nhất với Chúa Giêsu và tình yêu liên kết. Mà vì được hiệp nhất với Chúa Kitô, Mẹ đã hiểu được nỗi khổ đau của Chúa Kitô khi Người kêu lên từ thập giá: “Chúa Trời ơi, Chúa Trời ơi, sao Chúa lại bỏ rơi tôi?”. Tuy nhiên, “đêm tối tăm” này, nỗi đau khổ này, còn được gây ra bởi việc tông đồ nữa, bởi tình yêu tha nhân nữa. Vì yêu mến Chúa Kitô, Mẹ cũng hiểu được nỗi khổ đau của kẻ khác, hiểu được nỗi cô đơn của họ cũng như tình trạng họ xa cách Thiên Chúa. Bởi thế, “đêm tối tăm” của Mẹ Têrêsa là vì chiều kích lưỡng diện mà tình yêu của tu sĩ nam nữ cảm thấy, trước hết là tình yêu “phu thê”, tình yêu của Mẹ với Chúa Kitô, tình yêu dẫn Mẹ đến chỗ liên kết với những khổ đau của Người, và sau đó, là tình yêu “cứu chuộc”, tình yêu dẫn đến chỗ thông phần vào việc cứu độ, vào việc loan truyền cho kẻ khác tình yêu của Thiên Chúa, để họ khám phá ra ơn cứu độ nhờ nguyện cầu và hy sinh. Bởi thế, đêm tối tăm là một cuộc thử thách yêu thương hơn là một cuộc thử thách đức tin. Mẹ không chịu khổ bởi không cảm thấy được tình yêu Chúa Giêsu cho bằng Mẹ chịu khổ vì lòng Mẹ mong ước Chúa Giêsu, lòng mẹ khao khát Chúa Giêsu, khao khát yêu thương. Mục đích của hội dòng này chính là việc làm cho Chúa Giêsu giản cơn khát thập giá bằng tình chúng ta yêu mến Người và việc chúng ta dấn thân cho các linh hồn. Mẹ không những chia sẻ cảnh nghèo khổ về thể lý và vật chất với người nghèo, Mẹ còn cảm thấy nỗi khát khao, cảnh bị bỏ rơi của thành phần này nữa. Thật vậy, cái nghèo khổ lớn nhất không phải là không được yêu mà là bị loại bỏ.
-----------Chính vị thần học giáo hoàng gia là linh mục Raniero Cantalamessa Dòng Phanxicô, trong bài giảng thứ hai trong Mùa Vọng (theo thông lệ hằng năm) ở Nguyện Đường Redemptoris Mater thuộc Tông Dinh Giáo Hoàng, cho Giáo Triều Rôma hôm Thứ Sáu 12/12/2003, với sự tham dự của chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng đã đề cập tới tình trạng đêm tối tăm nội tâm này của Mẹ Têrêsa. Căn cứ vào hồ sơ phong chân phước, vị linh mục này đã nói đến những chi tiết liên quan tới đêm tối tăm của Mẹ Têrêsa như sau: thứ nhất là về khởi điểm của đêm tối tăm: được bắt đầu sau khi Mẹ Têrêsa đáp ứng ơn soi động lập dòng (tức từ cuối thập niên 1940); thứ hai về thời hạn trải qua đêm tối tăm: cho tới khi Mẹ qua đời năm 1997, tức 50 năm trời, cả cuộc đời hoạt động bác ái; thứ ba về cảm nghiệm tối tăm: ‘cảm thấy không được Thiên Chúa yêu thương’, cảm thấy có một cái gì đó ‘hoàn toàn tương phản’.
-----------Nhận định về tâm trạng tu đức tối tăm lạ lùng này của Mẹ Têrêsa, vị linh mục thần học giáo hoàng gia này cho biết ba điểm như sau:
-----------Thứ nhất, liên quan tới cái bí mật của tình trạng nội tâm này:
-----------•“Bông hoa thơm phức nhất tỏa ra từ đêm tối tăm của Mẹ Têrêsa đó là việc Mẹ im lặng về nó. Ngay cả thành phần gần Mẹ nhất cũng không hề hay biết gì cả về tình trạng quằn quại nội tâm cho đến chết này”.
-----------Thứ hai, liên quan tới lý do tại sao Mẹ Têrêsa Calcutta lại phải trải qua một đêm tối tăm suốt cuộc đời 50 năm hoạt động phục vụ bác ái của Mẹ như thế, một thời gian mà theo vị linh mục này, vượt ra ngoài cả mục đích thanh tẩy nội tâm nữa, vì, về mặt tiêu cực, Chúa muốn bảo vệ Mẹ khỏi nguy hiểm bởi tiếng tăm nổi lên như cồn của Mẹ, và về mặt tích cực, Chúa muốn cho Mẹ được hoàn toàn thông phần vào cơn khát núi sọ của Người. -----------• “Hiện tượng đêm tối tâm linh lạ lùng này thực tế kéo dài suống cả cuộc đời… Nó là phương tiện do Thiên Chúa thực hiện cho các vị thánh ngày nay là thành phần sống và hoạt động liên tục trước ánh sáng rạng ngời của truyền thông xã hội… Thế nhưng, có một lý do sâu xa hơn nữa cho thấy lý do tại sao đêm tối tăm này kéo dài suốt cả cuộc đời như vậy, đó là gương Chúa Kitô, được tham dự vào đêm tối tăm tâm linh của Chúa Giêsu trải qua trong Vườn Nhiệt và đêm tối tăm tâm linh Người đã chết trên Đồi Canvê”. -----------Thứ ba, liên quan tới tác dụng thần linh của thành phần trải qua đêm tối tăm như Mẹ Têrêsa trong thế giới hiện đại:
• “Thật là sai lầm khi nghĩ rằng đời sống của những con người này hoàn toàn u ám và khổ đau… (Nhờ cảm nghiệm này) các vị thần bí ấy đã đến sát với thế giới của những ai sống ‘không có Thiên Chúa’… (cho đến độ họ trở thành) những vị truyền bá phúc âm hóa tuyệt vời trong thế giới hậu tân tiến này, một thế giới người ta sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu”.
-----------Nếu Chân Phước Têrêsa Calcutta cả đời hoạt động bác ái 50 năm của mình trải qua đêm tối tăm đức tin thế nào thì Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II hầu như cả đời làm giáo hoàng của mình (16/10/178-2/4/2005) cũng bị khổ đau về phần xác (kể từ khi bị ám sát hụt 13/5/1981) như vậy. Cả hai vị như cành nho đã sinh trái lại càng sai trái hơn (x Jn 15:2), vì được thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần – Redemptor Hominis”, để Người sử dụng con người của các vị mà tiếp tục tỏ mình ra cho một thế giới văn minh hầu như tột đỉnh nhưng lại lạc loài hơn bao giờ hết.
-----------Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã cho thấy nhận định của mình về vị Tiền Nhiệm liên quan tới đời sống tu đức thần hiệp của ngài, trong dịp đầy năm băng hà của ngài. Chẳng hạn như trong bài giảng lễ đầy năm tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày Thứ Hai 3/4/2006 như sau:
-----------“Ở Bài Đọc Thứ Nhất theo Sách Khôn Ngoan, chúng ta được nhắc nhở về định mệnh đời đời đang đợi chờ thành phần công chính: một định mệnh tràn đầy hạnh phúc, một phần thưởng khôn sánh về những khổ đau và thử thách họ phải đương đầu trong cuộc sống của họ. ‘Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy rằng họ xứng đáng với Ngài; Ngài đã thử thách họ như lửa thử vàng, và Ngài đã chấp nhận họ như một hiến lễ toàn thiêu’ (Wis 3:5-6).
-----------“Chữ ‘lễ toàn thiêu’ ám chỉ sự hy sinh nạn nhân bị toàn thiêu, bị thiêu rụi đi bởi lửa; nhờ đó, nó là một dấu hiệu hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa. Lời diễn đạt này của Thánh Kinh nhắc nhở chúng ta về sứ vụ của Đức Gioan Phaolô II, vị đã biến cuộc đời của mình thành một tặng vật dâng lên Thiên Chúa cùng hiến cho Giáo Hội, và nhất là trong việc cử hành Thánh Thể, ngài đã sống trọn chiều kích hy hiến theo thiên chức linh mục của ngài.
-----------“Trong số những lời kêu cầu được ngài yêu thích đó là lời xuất phát từ ‘Litanie de Gesù Cristo Sacerdote e Vittima’ ngài đã chọn cho vào phần kết của tác phẩm của mình, Tặng Ân và Mầu Nhiệm, xuất bản nhân dịp mừng 50 năm chịu chức linh mục của ngài (xem các trang 113-116): ‘Iesu, Pontifex qui tradidisti temetipsum Deo oblationem et hostiam – Ôi Giêsu, Vị Thượng Tế đã hiến mình cho Thiên Chúa như lễ vật và thí vật, xin thương xót chúng con’.
-----------“Ngài đã thường lập lại lời khẩn cầu này biết bao! Nó diễn tả rõ ràng tính chất linh mục sâu xa của cả cuộc đời ngài. Ngài không bao giờ huyền hoặc hóa ước muốn của mình trong việc càng ngày càng nên một với Chúa Kitô Tư Tế qua Hy Tế Thánh Thể, nguồn mạch cho việc không ngừng dấn thân tông đồ.
-----------“Dĩ nhiên, chính đức tin mới là căn nguyên của việc ngài toàn hiến này. Trong Bài Đọc Thứ Hai chúng ta vừa nghe, Thánh Phêrô cũng sử dụng hình ảnh lửa thử vàng và áp dụng hình ảnh này vào đức tin (x 1Pt 1:7). Thật thế, tính chất của đức tin nơi mỗi người chúng ta mới đặc biệt là những gì bị thử thách và thử nghiệm bởi những khốn khó của cuộc đời, để thấy được tính chất vững chắc của nó, tính chất tinh tuyền của nó, tính chất kiên trì của nó trong cuộc sống. Vậy, Đức Cố Giáo Hoàng, vị đã được Thiên Chúa trang bị cho nhiều tặng ân về nhân bản cũng như về thiêng liêng, đã càng ngày càng cho thấy ngài như một ‘tảng đá’ đức tin khi trải qua cuộc thử luyện trong việc vất vả hoạt động tông đồ và chịu đựng bệnh hoạn.
-----------“Đối với những ai được dịp gần gũi với ngài thì đức tin vững mạnh và cương quyết này hầu như là những gì hiển nhiên. Nếu nó chẳng những làm cho thành phần cộng tác với ngài phải khâm phục, mà còn lan tỏa trong giáo triều dài của ngài cái ảnh hưởng thiện ích của ngài khắp Giáo Hội nữa, với một cường độ mạnh dần cho tới khi đạt tới tột đỉnh của nó vào những tháng ngày cuối đời của ngài.
-----------“Nó là một đức tin xác tín, mãnh liệt, chân thực, không biết sợ hãi và thỏa hiệp của ngài, một đức tin đã tác động tới tâm can của nhiều người, cũng nhờ nhiều chuyến tông du khắp nơi trên thế giới, nhất là nhờ ‘cuộc hành trình’ cuối cùng ấy, cuộc thống khổ và cái chết của ngài”.
Và trong bài huấn từ kết thúc Đêm Canh Thức Thánh Mẫu (cầu Kinh mân Côi) tại Quảng Trường Thánh Phêrô vào chính ngày kỷ niệm đúng một năm ngài qua đời 2/4/2006, Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã cảm nhận cuộc sống mục vụ day hoa trái của vị tiền nhiệm đáng kính mến của mình như sau:
-----------“Một năm đã qua từ biến cố băng hà của Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, một biến cố đã xẩy ra hầu như vào đúng giờ này – 9 giờ 37 phút tối – thế nhưng việc tưởng nhớ đến ngài vẫn tiếp tục đặc biệt sống động, như được chứng thực qua nhiều nghi thức được thực hiện trong những ngày này trên khắp thế giới. Ngài tiếp tục hiện diện trong trí khôn của chúng ta và trong tâm can của chúng ta. Ngài tiếp tục thông đạt cho chúng ta tình ngài mến yêu Thiên Chúa và lòng ngài mến thương con người; ngài tiếp tục tác động nơi tất cả mọi người, nhất là giới trẻ, lòng nhiệt thành tìm kiếm sự thiện và lòng can đảm theo Chúa Giêsu cùng giáo huấn của Người.
-----------“Làm sao để có thể tóm lược được cái chứng từ phúc âm ấy của vị đại Giáo Hoàng này đây? Tôi cố gắng tóm lược lại bằng hai từ ngữ, đó là ‘trung thành’ và ‘dấn thân’. Hoàn toàn trung thành với Thiên Chúa và dứt khoát dấn thân cho sứ vụ làm mục tử của Giáo Hội hoàn vũ. Lòng trung thành và việc dấn thân thậm chí trở nên sống động và cảm kích hơn nữa trong những tháng cuối đời của ngài, khi ngài thể hiện bản thân mình những gì ngài viết vào năm 1984 trong tông thư ‘Salvifici Doloris’: ‘Khổ đau đang hiện diện trên thế giới để phát tỏa yêu thương, để hạ sinh những công cuộc yêu thương đối với tha nhân, để biến đổi toàn thể văn minh con người thành một thứ ‘văn minh yêu thương’ (đoạn 30).
-----------“Với gương mặt can trường, bệnh nạn của ngài đã làm cho mọi người chú trọng tới nỗi đớn đau của con người hơn, tới tất cả nỗi khổ đau về thể lý và tinh thần; ngài cống hiến cho khổ đau cái phẩm vị và giá trị, cho thấy rằng cái giá trị của con người không phải ở cái hiệu năng của họ hay dáng vẻ bề ngoài của họ, mà là ở trong chính bản thân họ, vì họ đã được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương.
-----------“Bằng lời nói và cử chỉ của mình, Đức Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta không thôi chỉ cho thế giới thấy rằng nếu con người để cho Chúa Kitô chiếm đoạt thì nó không làm hư hao đi cái phong phú của nhân tính mình; nếu họ kính mến Người hết lòng thì sẽ không thiếu thốn gì hết. Trái lại, việc gặp gỡ Chúa Kitô làm cho đời sống của chúng ta trở thành phấn khởi hơn.
-----------“Chính vì ngài đã lôi kéo chúng ta đến gần với Thiên Chúa hơn bằng nguyện cầu, bằng chiêm niệm, bằng lòng yêu chuộng Chân và Mỹ, mà Vị Giáo Hoàng thân yêu của chúng ta đây biến mình thành một kẻ đồng hành với mỗi người chúng ta và có thế giá để thậm chí nói với cả những ai xa cách đức tin Kitô Giáo”. |
|