|
-----------Bậc tu đức thứ ba, bậc tu đức hiệp sinh, cũng gọi là giai đoạn tu đức lên đến chỗ nguyện cầu thần hiệp, tức giai đoạn Kitô hữu được hiệp thông thần linh với Thiên Chúa, đến nỗi, họ có thể nói như Thánh Phaolô Tông Đồ là không gì có thể tách họ ra khỏi tình yêu Chúa Kitô (x Rm 8:35-39). Bởi vì, Chúa Kitô “là Sự Sống” (Jn 14:6), Đấng Phục Sinh “được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18), Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, tỏ mình ra cho họ, như Người đã chẳng những tỏ mình ra cho các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, mà còn ban Thánh Thần cho họ nữa, để nhờ chính Thánh Thần ban sự sống này của Người, họ được nên một với Người, được quyền năng như Người, được cảm nghiệm thần linh thấy tất cả Lòng Thương Xót Chúa của Người, đối với chính bản thân của họ cũng như đối với tội nhân, và trở thành thừa tác viên (nếu được tuyển chọn trong thiên chức linh mục) ban phát Lòng Thương Xót Chúa, và là chứng nhân cho Lòng Thương Xót này (x Lk 24:47-48), đến nỗi, họ có thể khống chế sự dữ và không sự dữ nào có thể tác hại được họ (x Mk 16:17-18). Điển hình cho giai đoạn tu đức thứ ba hiệp sinh này nơi người Kitô hữu cũng là trường hợp của Thánh Nữ Mai Đệ Liên, người đã được Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra một cách đặc biệt, nhờ đó chị đã trở thành tông đồ cho các tông đồ (x Jn 20:11-18), trở thành chứng nhân cho Chúa Kitô “là Sự Sống”: “Tôi đã thấy Chúa” (Jn 20:18). Phải, khi tới bậc tu đức hiệp sinh cao nhất, Kitô hữu có một cảm nghiệm thần linh sâu xa nhất và trọn hảo nhất, ở chỗ họ cầu nguyện không bằng tác động cảm xúc hay suy tưởng như ở giai đoạn tu đức khởi sinh và tiến sinh nữa, mà là cầu nguyện bằng tác động đức tin tinh tuyền, tác động chiêm niệm với cả con người được thấm đẫm “ánh sáng sự sống” (Jn 8:12), “một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), trở thành cành nho sinh muôn vàn hoa trái thần linh (x Jn 15:5).
-----------Trong bài giảng cho Thánh Lễ Truyền Dầu vào sáng Thứ Năm 13/4/2006 ở Quảng Trường Thánh Phêrô, Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nói về và với chư huynh trong hàng giáo phẩm và giáo sĩ của ngài liên quan đến mối liên hệ thân tình giữa Chúa Kitô với thành phần được chia sẻ vào thiên chức linh mục của Người, một mối liên hệ có tính chất tu đức và nội tâm, một tính chất quan thiết cho hoạt động mục vụ của các vị như sau (người viết tự ý nhấn mạnh ở những chỗ in nghiêng và đậm):-----------“Chúa Kitô đã đặt tay của Người trên chúng ta. Người đã bày tỏ ý nghĩa của cử chỉ như thế qua những lời Người nói rằng: ‘Thày không còn gọi các con là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết gì về những việc chủ làm. Thày gọi các con là bạn hữu, vì Thày đã nói với các con hết mọi sự Thày đã nghe nơi Cha Thày’ (Jn 15:15). Thày không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu: Nơi những lời ấy người ta thậm chí có thể thấy được việc thiết lập thiên chức linh mục. Chúa Kitô làm cho chúng ta thành bạn hữu của Người, ở chỗ, Người ký thác cho chúng ta tất cả mọi sự; Người phó chính bản thân Người cho chúng ta để chúng ta có thể nói bằng cái tôi của Người: ‘in persona Christi capitis’. Ôi Người tin tưởng chúng ta biết là dường nào! Người thực sự phó mình vào tay của chúng ta.
-----------“Những dấu hiệu thiết yếu của việc truyền chức linh mục là tất cả những biểu lộ sâu xa của lời ấy: dấu hiệu đặt tay; trao sách – trao lời Người ủy thác cho chúng ta; trao chén biểu hiệu cho việc Người truyền đạt cho chúng ta mầu nhiệm sâu xa và thân mật nhất của Người. Trong tất cả những sự ấy còn có quyền năng tha tội nữa: Người cũng làm cho chúng ta tham dự vào việc Người nhận thức thấy tình trạng thảm thương của tội lỗi cùng với tất cả những gì là tối tăm trên thế giới, và trao cho chìa khóa vào tay chúng ta để mở lại cửa Nhà Cha trên trời. Thày không còn gọi các con là tôi tớ nữa mà là bạn hữu. Đó là ý nghĩa sâu xa của việc làm linh mục, đó là trở thành bạn hữu của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta cần phải tái dấn thân cho mới thân hữu hằng ngày này.
-----------“Tình thân hữu là để chia sẻ tâm tư và ước muốn. Trong mối hiệp thông này, Thánh Phaolô nói với chúng ta ở Thư gửi giáo đoàn Philiphê (x 2:2-5), chúng ta cần phải làm cho mình tưởng nghĩ như Chúa Giêsu. Và mối hiệp thông về tâm tưởng này không phải chỉ là những gì về tri thức, mà là một thứ chia sẻ về những cảm thức cùng ý muốn nên cũng chia sẻ về cả hành động nữa.
-----------“Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải nhận biết Chúa Giêsu một cách thân tình hơn bao giờ hết, lắng nghe Người, chung sống với Người, bỏ giờ ra với Người. Việc lắng nghe Người – nơi việc ‘lectio dinina’, tức là việc đọc Thánh Kinh, không phải theo kiểu học thức mà là theo kiểu thiêng liêng; nhờ đó chúng ta biết cách gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng đang hiện diện và nói với chúng ta. Chúng ta cần phải suy nghĩ và phản tỉnh những lời của Người cũng như những hành động của Người trước nhan Người và cùng với Người.
-----------“Việc đọc Thánh Kinh là việc cầu nguyện, nó phải là việc cầu nguyện – nó phải xuất phát từ việc nguyện cầu và dẫn tới việc nguyện cầu. Các thánh ký nói với chúng ta rằng Chúa Kitô thường ẩn mình ở trên núi cầu nguyện thâu đêm. Chúng ta cũng cần đến thứ ‘núi’ này: đó là độ cao nội tâm chúng ta cần phải leo lên, đó là ngọn núi nguyện cầu. Chỉ có thế mối thân hữu mới phát triển. Chỉ có thế chúng ta mới có thể thi hành công việc phục vụ tư tế của chúng ta, chỉ có thế chúng ta mới có thể đem Chúa Kitô và Phúc Âm của Người đến cho con người. Việc chỉ biết hăng say hoạt động thậm chí có thể là những gì anh hùng. Thế nhưng hoạt động bề ngoài, cuối cùng, vẫn chẳng sinh hoa kết trái và mất đi hiệu năng, nếu nó không được xuất phát từ mối hiệp thông sâu xa thân mật với Chúa Kitô.
-----------“Thời gian chúng ta giành cho việc làm này thực sự là thời gian của hoạt động mục vụ, của hoạt động mục vụ đích thực. Một linh mục trước hết là một con người nguyện cầu. Thế giới thường lạc hướng của mình theo chiều hướng duy hoạt động cuồng loạn của nó. Hoạt động của nó và các khả năng của nó trở thành những gì hủy hoại, nếu không có sức mạnh của việc nguyện cầu là những gì xuất phát giòng nước sự sống có khả năng làm cho đất đai khô cằn trở nên mầu mở phì nhiêu.
-----------“Thày không còn gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu. Yếu tính của thiên chức linh mục đó là làm bạn của Chúa Giêsu Kitô. Chỉ có thế chúng ta mới thực sự nói ‘thay cho Chúa Kitô – in persona Christi’, cho dù nội tâm chúng tax a lìa Chúa Kitô vẫn không thể làm tổn thương tới tính cách hiệu thành của bí tích. Làm bạn với Chúa Giêsu, làm linh mục nghĩa là làm một con người nguyện cầu. Vậy chúng ta hãy tình bạn này và hãy thoát khỏi cảnh vô tri của những người tôi tớ quê mùa. Vậy chúng ta hãy biết làm sao để sống, để chịu khổ và để tác hành với Người và cho Người.
-----------“Tình bằng hữu với Chúa Giêsu bao giờ cũng là tình bằng hữu đệ nhất với những ai thuộc về Người. Chúng ta có thể làm bạn của Chúa Kitô chỉ trong mối hiệp thông với toàn thể Chúa Kitô, tức với cả đầu lẫn thân, nơi sự sống dồi dào phong phú của Giáo Hội được sinh động bởi Chúa Kitô. Chỉ trong Giáo Hội, nhờ Chúa Kitô, Thánh Kinh mới là Lời sống động và hợp thời. Không có chủ thể sống động Giáo Hội ấp ủ các thời đại này, thì Thánh Kinh bị đổ bể thành những bản văn thường bất nhất hỗn tạp, do đó trở thành một cuốn sách của quá khứ. Thánh Kinh là những gì sống động vào lúc này đây chỉ ở nơi nào có ‘Sự Hiện Diện’ thôi – nơi nào Chúa Kitô mãi đồng thời với chúng ta: tức nơi thân thể Giáo Hội của Người.
-----------“Là linh mục tức là làm bạn với Chúa Giêsu Kitô, và điều này càng trở nên hơn thế nữa qua cả cuộc sống của chúng ta. Thế giới cần đến Thiên Chúa – không cần đến bất cứ một thần linh nào, mà là cần đến Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, đến Vị Thiên Chúa hóa thành huyết nhục, Vị đã yêu thương chúng ta đến chết vì chúng ta, Vị đã phục sinh và đã tao nên nơi bản thân Ngài một khoảng trống cho con người. Vị Thiên Chúa này cần phải sống trong chúng ta và chúng ta cần phải sống trong Ngài. Đó là ơn gọi linh mục của chúng ta: Chỉ có thế hoạt động linh mục của chúng ta mới sinh hoa kết trái mà thôi”. -----------Những lời của Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói với thành phần tư tế thừa tác và nói về thiên chức linh mục thừa tác trên đây liên quan đến tu đức, đến đời sống thân tình với Chúa Kitô, như cành nho dính liền với thân nho để sinh muôn vàn hoa trái, cũng có thể áp dụng cho hết mọi tín hữu giáo dân, thành phần thật sự, qua Phép Rửa, đã lãnh nhận thiên chức linh mục phổ quát, do đó, cũng cần phải làm chứng nhân cho Chúa Kitô qua các hoạt động tông đồ giáo dân của mình, những hoạt động tông đồ một phần nào cũng mang tính cách mục vụ như các vị tư tế thừa tác.
-----------Ngay trong ba vai trò vương giả, tư tế và ngôn sứ của Kitô hữu sau khi lãnh nhận Phép Rửa cũng cho thấy linh đạo tam cấp của Kitô Giáo. Ở chỗ, Kitô hữu đóng vai trò vương giả khi tỏ ra làm chủ mọi sự, không bị bất cứ một sự gì chi phối, một thái độ như ở trong bậc khởi sinh tu đức; nhờ làm chủ trái đất như thế, Kitô hữu mới có thể xứng đáng đóng vai tư tế, thay cho và cùng với tất cả mọi sự chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, một tình trạng thuộc về bậc tu đức tiến sinh; thế rồi nhờ tác vụ tư tế có sức thánh hóa mọi sự của mình như thế, Kitô hữu quả thực đã chu toàn vai trò ngôn sứ chứng nhân, một vị thế của bậc tu đức hiệp sinh dồi dào và truyền đạt sự sống. |
|