| 
 |  
 
 Mã số: 16-060 
   
TIN MỪNG GIỜ THƯƠNG XÓT 
 
 Kết thúc giờ kinh chiều, tôi rời khỏi nhà nguyện. Vừa về đến phòng,  chiếc điện thoại đã đổ chuông báo tin nhắn mới. Cứ nghĩ là thông báo ý  cầu nguyện giờ kinh Lòng Thương Xót 3 giờ chiều của nhóm, tôi vội cầm  điện thoại lên. Hóa ra không phải. Là tin nhắn của cháu gái ở quê xa: 
 “Dì ơi! Nhà ông Hưu đi đạo trở lại rồi, mà con Thúy thì không chịu đi.  Hôm trước, ông ấy nói cháu sang gọi con Thúy đi học giáo lý. Cháu gọi mà  nó  không chịu. Từ đó nó không nói chuyện với cháu nữa, cháu nhắn tin  nó cũng chẳng thèm trả lời. Giờ phải làm sao cho con Thúy trở lại hả  dì?”.  
 *** 
 Nhà ông Hưu ở đầu xóm dưới, nhà tôi ở cuối xóm  trên, nên hai gia đình chỉ cách nhau có mấy trăm mét. Ông Hưu là bạn làm  rẫy với bố tôi, bà Minh là bạn chợ với mẹ tôi, còn Đào, con thứ ba của  ông bà là bạn thân cùng lớp với tôi suốt bốn năm học cấp hai. Ông Hưu  vui tính lắm, lại hay văn thơ nữa. Hồi chị gái tôi sắp lấy chồng, mỗi  lần ông đi làm đồng về, đang cỡi trên xe bò, ông cũng nói vọi vào nhà: 
 Ông Quang có tấm rèm thưa 
 Có cô con gái mà chưa lấy chồng 
 Ai ai đến hỏi cũng không 
 Chú Khai đến hỏi bằng lòng gả ngay. 
 Rồi ngày xưa, nhà tôi có hai cây dừa đầu hai góc vườn. Mỗi lần đi làm rẫy về, thấy tôi ông lại cười và đọc thơ: 
 Ông Quang có hai cây dừa 
 Đứng kề trước ngõ bốn mùa tốt tươi. 
 Mấy năm sau, nhà tôi bán đất lấy tiền nộp học cho anh trai, nên một cây  dừa sai quả nhất đã thuộc về ngõ nhà người ta. Ông Hưu đi qua, thấy tôi  lại cứ đọc: 
 Ông Quang có hai cây dừa ... 
 Chưa để ông nói hết câu, tôi đã cười và ngắt lời: 
 - Bữa nay nhà con có được một cây dừa thôi ông ạ! 
 Ông đáp lại: 
 Ông Quang có một cây dừa 
 Đứng kề trước ngõ nắng mưa xanh rờn. 
 Tôi phì cười, khen ông tài, ứng xử mau lẹ. Tôi hay xuống nhà ông để  học, chơi với Đào. Hai đứa cùng nhau học bài, ôn thi tốt nghiệp cấp hai.  Giờ giải lao thì ra chơi đá cầu. Chơi cầu được mấy bữa thì lông cầu  rụng hết, chúng tôi lại hái mấy cái lá ven đường buộc túm lại, rồi đưa  lên chân khấc từng cái, mà cũng điêu luyện chẳng kém cầu nhựa kia. Ngoài  giờ học văn hóa, chúng tôi cùng là bạn học giáo lý. Hầu như năm nào thi  giáo lý cả hai đứa cũng đạt điểm ưu. Và rồi, một biến cố đã xảy ra  khiến cho gia đình nhà ông Hưu bất mãn. Năm học đó, sau kì thi giáo lý  cuối năm, tôi và Đào ra về phấn khởi vì làm được bài. Nhưng khi thông  báo kết quả thì Đào điểm thấp lắm, chẳng ưu như tôi nữa. Nó thắc mắc với  tôi, tôi thắc mắc với bố tôi, vì bố tôi là trưởng Ban giáo lý xứ. Bố  tôi vội vàng bảo các thầy xem lại bài. Chấm lại thì bài đó vẫn không có  thay đổi về điểm số. Ngày phát phần thưởng thì không có tên của Đào. Gia  đình họ bắt đầu xầm xì, xôn xao. Bố tôi đích thân kiểm tra lại, thì  phát hiện ra có sơ suất trong việc dán phách. Bài làm của Đào được dán  vào một cái tên khác, còn cái bài có tên của Đào thì có nét chữ khác. Bố  tôi cùng với một số thầy nữa duyệt đi duyệt lại và tìm được đúng bài  của Đào, và đúng là điểm ưu. Trong Thánh lễ Chúa nhật, bố tôi thay mặt  Ban giáo lý xứ xin lỗi công khai gia đình nhà ông Hưu và cả Cộng đoàn,  vì sơ suất đó. Cha xứ cũng xin lỗi, và đích thân ngài trao phần thưởng  cho Đào trong Thánh lễ. Mọi chuyện bắt đầu chỉ có thế thôi. Tôi và Đào  vẫn chơi với nhau. Ông Hưu và bố tôi vẫn qua lại với nhau. Bà Minh và mẹ  tôi vẫn chuyện trò với nhau... 
 Hết năm học ấy, tôi và Đào lên cấp  ba. Hai đứa đã học hai lớp khác nhau, nó học khối A, tôi học khối D. Mỗi  đứa đều có những người bạn mới, những lịch học mới không giống nhau. Bố  tôi thì có tuổi, chẳng còn làm rẫy trên nương cao. Bố tôi chuyển tới  làm việc tại phòng khám Đông Y với các thầy Dòng, theo lời mời của cha  Sở Hạt mới về, nơi nhà xứ cách xứ tôi ba mươi cây số. Bởi thế mà hai gia  đình ít qua lại hơn xưa, và tôi cũng không biết chuyện gì đang xảy ra  trong nhà của họ. 
 Năm ấy giáo xứ tôi bắt đầu có cha xứ mới. Cha vẫn  thực hiện chương trình “Hũ gạo tiết kiệm” do cha tiền nhiệm khởi xướng.  Cha kêu gọi giáo dân mỗi lần nấu cơm bớt ra một nắm gạo bỏ vào hũ tiết  kiệm. Vào Chúa nhật, học trò các lớp giáo lý đến từng nhà, từng nhóm để  thu số gạo tiết kiệm ấy đưa về kho nhà xứ, để đi phát cho người nghèo,  hoặc mang về Đại Chủng Viện ủng hộ các thầy. Nhưng khi đám học trò đến  nhà ông Hưu thì bị gạt đi. Mấy tuần đầu là ông Hưu lên tiếng: “Người ta  đi làm cực nhọc, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới được hạt gạo, cho gì mà  cho”. Mấy tuần sau, nhóm học trò khác lại đến đi xin, bà Minh nói thẳng  thừng: “Nhà này không có gạo cho đâu mà xin, đi đi”. Từ đó, đám học trò  truyền miệng nhau, không ai dám đến nhà ông Hưu nữa. Và gia đình ông  cũng tự nguyện rút lui khỏi danh sách các hộ gia đình trong nhóm 9 của  giáo họ trị sở. Các con của ông không còn được đi học giáo lý. Hai đứa  con gái lớn của nhà ông Hưu, đứa học hết đại học, đứa học hết cấp ba đã  đi làm xa. Cả hai đều yêu phải người lương. Gia đình lo tổ chức cưới xin  cho nó, nhưng không theo phép đạo. Cha xứ tuyên bố giữa nhà thờ rằng ai  đi dự đám cưới của những trường hợp như vậy thì cũng bị mắc vạ, mất  linh hồn. Vì thế mà anh em họ hàng, bà con lối xóm cũng không đến tham  dự. Nó cưới xin xong rồi đưa nhau đi lập nghiệp ở đâu đâu dân làng cũng  chẳng rõ. Gia đình ông ngày càng tự cô lập mình với dân làng, và mọi  người bắt đầu xa lánh... 
 Nhà ông Hưu nằm ngay trên đường từ nhà tôi  đến nhà thờ. Trước đây, nhà của ông xây sâu ở bên trong, nối với con  đường bằng một cái cổng đất thật dài. Chỗ đó cũng rậm rạp, có mấy bụi  tre tối thui, mà người già trẻ nhỏ đi qua đều sợ vì những câu chuyện ma  hiện ra nơi bụi tre, được truyền từ đời này sang đời khác. Bữa nay, sau  ngày tôi đi học đại học về, thấy vùng đất đó mọc lên nhiều ngôi nhà mới  ngói đỏ, của các gia đình trẻ mới cưới, được bố mẹ ra riêng cho một phần  đất. Mấy bụi tre truyền kỳ cũng bị chặt hết, rảnh quắc. Nhà ông Hưu  cũng xây lại nhà mới, ở sát đường. Nhưng thật kỳ cục, nhà ông xây không  ngoảnh mặt ra đường, mà quay về hướng xuôi. Vào dịp tết hay lễ trọng,  các gia đình ở quê tôi có truyền thống treo cờ vàng trắng. Các con đường  nối đến nhà thờ rực rỡ hơn, sáng tươi hơn nhờ những hàng cờ vàng trắng  tung bay phấp phới. Nhưng đến ngay đỉnh dốc, cách nhà thờ vài trăm mét,  tức là nhà ông Hưu, thì lại sừng sững một cái cờ đỏ sao vàng. Hễ người  ta treo cờ Giáo Hội là ông Hưu lại đi treo cờ Tổ Quốc. Ai đi qua cũng  phải nhìn ngôi nhà ấy một cách rất chướng mắt. Một cái cổng sắt cao cũng  được dựng lên bọc kín ngôi nhà. Hầu như chẳng mấy khi thấy cổng mở, và  không một bóng người trong làng lai vãng tới. Dịp nghỉ tết về, tôi đi  nhà thờ qua, thấy đám bạn con trai dân chơi to lớn, lạ hoắc , hình như  là đám bạn Đào mới quen ở thành phố. Tôi và Đào đã chẳng còn chơi với  nhau nữa, dù cùng học đại học ở Thủ Đô. Đào sống ở ngoại ô, còn tôi sống  ở trung tâm thành phố. Đã nhiều lần tôi gọi điện rủ Đào đi lễ Chúa nhật  và sinh hoạt nhóm sinh viên Công giáo, nhưng Đào không đi. Cách sống  của nó cũng khác tôi, gu thời trang, ăn mặc cũng khác nhiều. Nó sành  điệu hơn, chải chuốt hơn chứ không quê mùa như tôi. 
 Thời gian dần  trôi. Kể từ ngày gia đình ông Hưu bỏ đạo, giáo xứ tôi cũng chuyển đổi  cha xứ đến năm lần. Các cha cũng thao thức nhiều vì gia đình này. Hồi  mới đến, cha nào cũng hỏi thăm tình hình trong xứ, xem có những con  chiên lạc nào cần đi tìm. Có một cha trong nhiệm kỳ ba năm, đã rửa tội  cho rất nhiều người, và đưa nhiều con chiên lạc bỏ đạo lâu năm về với  Chúa. Cha cũng đã cố gắng đến động viên, hỏi thăm, tiếp cận gia đình ông  Hưu nhưng không được. Ngày cha đi nhiệm sở mới, cha vẫn còn nhắc đến  gia đình ông với niềm thao thức, khắc khoải và hứa cầu nguyện. Sau cha  đó, một vị Linh mục khác về quản xứ trong bốn năm. Cha này thì khác, ít  ra ngoài đến với giáo dân. Nhưng con đường cha đi đến làm lễ ở một giáo  họ nhỏ cũng phải đi qua nhà ông Hưu, và chắc là cha cũng phải để ý đến  nhà ông ấy. Rồi một Linh mục trẻ mới chịu chức cũng được sai về đây làm  cha phó. Ngày cha được thụ phong, cha đã cầu nguyện với lời của cha  thánh Gioan Bosco: “Xin cho con các linh hồn, còn mọi sự khác, xin cứ  lấy đi”. Cha cũng thao thức nhiều trong việc truyền giáo cho những người  đã bỏ đạo. Trong vòng một năm, cha cũng bắt được nhiều “con cá lớn”,  đưa họ trở về với Bí tích Hòa giải và Bí tích Thánh Thể. Vẫn là con  đường thân quen ấy, con đường từ nhà thờ đến nhà tôi, qua nhà ông Hưu,  cha xứ mới đi thăm các gia đình trong vùng. Nhà nào cha cũng đến và biết  rất rõ tên, tuổi, nghề nghiệp, con cái của người ta. Riêng nhà ông Hưu,  cha cũng vào nhưng họ lẩn tránh. Ngày cha phó chuyển đi, lên làm cha sở  ở vùng truyền giáo mới miền dân tộc thiểu số, cha vẫn khắc khoải về  trường hợp nhà ông Hưu, và phó thác cho Chúa. 
 Tôi cũng cầu nguyện  cho gia đình ông Hưu nhiều. Tôi không muốn mỗi lần về quê nhìn thấy cảnh  tượng một gia đình Công giáo treo cờ đỏ để tỏ ý đối kháng với những  người treo cờ vàng trắng. Tôi không muốn nhìn thấy cảnh gia đình đã từng  rất thân với tôi, sống gần gũi với xóm làng giờ đây lại tự tách mình cô  lập. Tôi không muốn nhìn những con người thân yêu đó của tôi bỏ lễ, bỏ  học giáo lý, coi việc giữ đạo là một gánh nặng. Nhưng tôi chẳng biết làm  thế nào, ngoài những  lời cầu nguyện âm thầm. Không biết có phải vì tôi  khắc khoải lắm chăng, mà hôm trước nằm ngủ, tôi mơ một giấc mơ đẹp.  Trong giấc mơ, tôi đặt mục tiêu truyền giáo, nghĩa là tôi phải coi việc  truyền giáo là một điều rất cần thiết phải làm, và mỗi người đều phải  truyền giáo cho được ít nhất là một người. Và mục tiêu của tôi, không ai  khác, chính là Đào, người bạn đã từng là bạn thân của tôi, giờ đang làm  việc nơi xa xôi: đất nước mặt trời mọc. Tỉnh dậy, tôi dâng một lời cầu  nguyện cho Đào, và cho gia đình ông Hưu. 
 *** 
 Nhận được tin nhắn  của cháu gái mà tôi vui mừng khôn tả. Tôi gọi điện cho chị gái, mới xây  nhà đối diện với nhà ông Hưu, để hỏi cho cụ thể. Chị bảo rằng cha xứ mới  về đã đến thăm và tìm hiểu hoàn cảnh gia đình ông, rồi không biết thế  nào vợ chồng ông xin trở lại. Hôm trước bà Minh sang nhờ chị may bộ áo  dài đi lễ và may một tấm cờ vàng trắng thật to. Ông Hưu thì sang chơi,  nói chuyện và nhờ cháu tôi rủ con Thúy, út nhà ông đi học giáo lý. Tôi  nhắn lại cho cháu : 
 “Cứ cầu nguyện trước hết, và phó thác cho Lòng  Thương Xót của Chúa cháu ạ. Chỉ Chúa mới biến đổi được quả tim con  người, và cũng vào thời gian mà Chúa muốn. Cháu cứ an tâm đi nhé, năng  qua nhà Thúy chơi, động viên nó. Có thể nó chưa muốn đi học giáo lý vì  mặc cảm về gia đình bỏ đạo lâu năm. Cháu hãy xóa đi khoảng cách, và nó  sẽ thấy gần gũi rồi sẽ đi học trở lại thôi”. 
 Vừa bấm tin nhắn gửi cho cháu gái xong, thì lại nhận được tin nhắn. Lần này là tin nhắn thông báo thật: 
 “Giờ của Lòng thương xót. Hôm nay xin anh chị em cầu nguyện cho những người đã bỏ đạo lâu năm được ơn hoán cải và giao hòa”. 
 Bỏ điện thoại xuống, tôi bắt đầu đọc kinh: Lạy Đấng Chí Thánh, là Thiên  Chúa Toàn Năng, Hằng Hữu, xin thương xót chúng con và toàn thế giới  .... 
 
Nguồn: Lm. Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự)    | 
 |