| 
 |  
 
 Mã số: 16-103 
   
 KHÓC 
   
 Ở hai đầu vũng tối là ánh sáng. Khi chiếc xe rít lên rồi dừng lại cũng  là lúc hắn đáp đất sau một cú bay. Giây phút lơ lững đó, ánh mắt hắn  ngợp bởi hai bóng đèn pha lóe sáng. Sau đó là chìm đến tận đáy của một  vũng tối dày đặc. Người ta kéo máy tới đợi hắn ở bên kia vũng tối, để  ghi lại khoảng khắc vị anh hùng tỉnh lại. Mắt hắn lại đầy ánh sáng của  những chiếc máy quay phim, chụp ảnh. Người ta tặng hoa, tặng quà, tặng  bằng khen. Ai cũng xúm xít, véo von quanh người vừa mới làm một chuyện  đáng tuyên dương, ca ngợi. Rộn ràng một lúc đám người đã mệt vì cười và  khen ngợi cũng ra về, mẹ hắn mới tới gần nói nhỏ: 
 - Bây không được làm chuyện dại dột đó nữa. 
 Hắn cong người ôm lấy mẹ đang ngồi ở mé giường và khóc. 
 Ngày thứ hai sau khi tỉnh lại, lúc ghé mắt ra cửa phòng, hắn thấy khuôn  mặt mình bị xách ngược trong tờ báo trên tay một người đàn ông. Người  đàn ông băng qua cửa chưa đầy hai giây, nhưng hắn kịp thấy mặt mình trên  trang nhất tờ báo, bên dưới người ta ghi một tít dài, có hai chữ “anh  hùng”. Khuôn mặt đó ám ảnh hắn. Hắn nhắm mắt lại cũng thấy khuôn mặt  mình chờn vờn trên bàn làm việc, trên tay của những đứa bé bán báo hay  lắt xắt bay trên những con đường khô cong và mù mịt bụi. Cả trăm ngàn  khuôn mặt đó đều có ánh mắt hoảng hốt và miệng mở ra như muốn nói điều  gì. 
 Ngày thứ bảy ở bệnh viện, cha hắn tới. Khi hắn trân cứng người lại vì sợ và ngạc nhiên thì cha hắn đã mở lời: 
 - Cuối cùng bây cũng làm một chuyện coi được. Chừng nào khỏe thì về nhà đi. 
 Chắc có tờ báo nào đã trôi ngược về xóm núi, và cha hắn nhận ra khuôn mặt của con trai mình. 
 Ngày thứ mười ba, hắn xin xuất viện. Từ chổ chiếc xe dừng lại tới nhà  phải đi một quãng khá xa. Hắn đi nhỏ nhẻ, vì những cái xương sườn gãy  vẫn nhói lên đau điếng và một tay bị băng cứng đơ. Mẹ hắn xách đồ nặng,  nên tuột lại phía sau. Thấy con ngập ngừng ở lối rẽ vô nhà, bà tiến lên  bảo: 
 - Nhà của bây, có chi mà ngại. 
 Trong đầu hắn có những thước  phim quay chậm. Hắn thấy con đường này của ba năm trước, cũng những  ngôi nhà này, cũng những khuôn mặt vói ra từ cửa sổ, hay nép sau những  tán cây, hay tụm lại ở một góc sân nhìn cảnh cha hắn cầm con dao theo  sau lưng đứa con. Ông chạy chậm, tiếng thở dốc cuộn trong tiếng bước  chân. Khi giữ được khoảng cách an toàn với con dao, hắn mới dừng lại,  nghĩ tim cha cũng tốt đó chớ. Cha hắn dứ con dao về phía hắn nói: 
 - Tao không có đứa con tù tội như mày. Tao thà chết cũng không cần mầy. 
 Câu nói này làm hắn chảy nước mắt. Phía trên kia trời trong vắt, không  gợn chút mây. Hôm hắn ra tù trời cũng im ắng như vậy. Không mây, nắng  không biết bám vào đâu nên trút hết xuống đầu một kẻ đứng trước cổng  trại giam hoang mang không biết mình đi hướng nào. Lối về duy nhất bị  bịt kín bởi người cha không chấp nhận một đứa con mới ngồi tù về, và  nhục nhã hơn, hắn còn làm trai bao. 
 Hắn quay lại thành phố và tiếp  tục làm trai bao để trả thù cuộc đời. Một cuộc đời bất công và hắt hủi  lối về của hắn. Khoảng đó là một vũng tối dày đặc và sâu. Bóng tối cong  mình lại, nên ánh sáng không lọt vào được. Ban đêm đi làm, ban ngày hắn  cuộn mình trong phòng, nghe mùi ẩm mốc xọc lên từ chiếc chăn xỉn màu và  tiếng những con gián thầm thì nói chuyện bên những hộp cơm vương vãi.  Nhưng có ai đau đớn vì hắn càng lún sâu vào ngỏ tối? Những người có thể  đau vì hắn thì ở xa và định kiến xây nên một bức tường dày giữa hắn và  họ. Hắn chỉ đợi lúc cánh cửa được mở ra đều đặn vào thứ năm hàng tuần.  Nắng ùa vào căn phòng tối và ẩm mốc. Người mở cánh cửa đó thường ngồi ở  mép giường nhìn hắn, hay dọn dẹp đôi chút trong căn phòng, và thỉnh  thoảng hỏi: 
 - Muốn xưng tội không? 
 Sau đó là tiếng đáp không ơ  hờ, hoặc hắn không đáp, chỉ quay lưng úp mặt vào chăn. Đó là một linh  mục, người bạn thân với hắn những năm cấp ba. Sau mỗi lần người bạn đó  ra về, cánh cửa khép lại. Nắng bị nhốt bên ngoài nên bóng tối và sự im  lặng đè nghiến, nhấn chìm hắn đến nghẹn thở. 
 Khác với căn phòng của  hắn, con đường về nhà sáng sủa vì đầy nắng. Hôm ở bệnh viện ba hắn biểu  hắn về. Sẽ không còn ly nước trà bay thẳng vào mặt và sau đó là con dao  sắc loáng đuổi theo, nhưng con đường gập ghềnh bởi những khuôn mặt vói  nhìn ra, và những lời móc máy vẫn nhảy ra xoi xói ở đầu môi. Nhưng mẹ  hắn mới biểu, nhà của bây, có chi mà ngại, bây đâu có ở ngoài đường, hay  ở nhà người ta. 
 Cả ngày hắn chỉ loanh quanh trong nhà, không hẳn vì  mỗi bước đi xương xóc va vào nhau đau nói, mà hắn sợ gặp người ta.  Nhưng hắn không ngờ mình lại gặp linh mục bạn ở nhà mình. Linh mục bạn  đạp xe đạp trên con đường mềm mại uốn mình giữa những cánh đồng. Một đám  trẻ líu ríu chạy theo sau, cười nói râm ran. Chúng dừng lại trước cổng  nhà hắn, như chạy qua cánh cổng ấy sẽ có một con ngáo ộp nhảy ra vồ lấy  chúng. Linh mục bạn thì chạy thẳng vào, như về nhà mình, con chó nhỏ còn  chạy ra quấn quýt. Hắn không giấu được một nét cười vừa vẽ lên trên  khóe môi. Sau khi xăm xoi tay chân hắn, linh mục bạn nói còn hên lắm.  Tay chân băng bó như vậy mà nói còn hên. Nhưng hắn hiểu, vì vụ này mà  hắn được về nhà, như vậy quá hên rồi. Linh mục bạn hỏi, có muốn xưng tội  không. Hắn gật đầu. 
 Hắn nhớ lần cuối cùng mình xưng tội cách đây  khoảng mười năm. Bữa đó là lần đâu tiên hắn đi khách. Sau khi nắm được  tờ tiền trong tay hắn đã bật khóc, nhưng khi quỳ trước tòa giải tội hắn  lại rối lòng. Mình làm vậy có sai không? Mình đã làm sai điều gì? Mình  có thể từ bỏ công việc này được không? Lúc đó hình ảnh cha hắn đang quằn  quoại trên giường với những cơn đau tim hiện lên. Mẹ hắn lúc nào cũng  nơm nớp với những nỗi lo, tiếng thở dài trôi lãng đãng mỗi khi nhìn cha  hắn ngủ mệt, khi nghe tiếng lon múc gạo vọng vào đáy thùng. Em hắn mỗi  lần thấy bạn mặc áo trắng tung tăng đến trường lại bỏ vô phòng nằm. Hắn  biết mình không thể bỏ công việc hái ra tiền này, nên bước ra khỏi tòa  giải tội. Tiếng vị linh mục già hiền từ vói theo sau lưng, làm hai chân  hắn dẫm lên nhau cuống quýt: 
 - Con ơi, quay lại đi. Cha chưa đọc lời tha tội. 
 Khi bị cảnh sát còng tay dẫn đi vì món tiền lừa đảo, hắn cũng thấy  khuôn mặt cha mình mòn sâu trên tấm trải giường trắng ở bệnh viện với  hơi thở đã đều trở lại. Thùng xe nhốt phạm nhân vừa tối vừa nóng, nhưng  hắn cảm thấy dễ chịu với ý nghĩ bệnh của cha mình ổn rồi. 
 Mười năm,  hắn đã thôi đi lễ. Hắn cũng thôi áy náy lương tâm từ lâu. Nhưng hắn vẫn  đợi mỗi chiều thứ năm người bạn linh mục đến. Một vệt nắng lóe lên trong  căn phòng, một vài câu hỏi thăm, và đôi khi kèm theo lời cằn nhằn sao  để đồ đạc lung tung vậy. Hắn cảm thấy có một chút nhẹ nhàng trong lòng  vì ít ra còn một ai đó quan tâm đến mình, còn một sợi dây cố gắng níu  hắn với cuộc đời. Người bạn đó làm vọng về trong hắn câu nói của linh  mục già ngày xưa: Con ơi, quay lại đi… 
 Đôi lúc đứng tròng trành trên  thành cầu lộng gió nhìn xuống dòng sông cuộn xiết, hắn nghe lời vị linh  mục ấy vọng về trong tiếng sóng: “Con ơi, quay lại đi”. Khi nhìn đoàn  xe lửa lao đi, hắn vẫn nghe tiếng ấy trộn lẫn trong tiếng bánh xe sắt  nghiến vào đường ray: “Con ơi, quay lại đi”. Hắn nghe “Con ơi, quay lại  đi” lẫn trong lời của nhân viên bán thuốc, khi nhìn khuôn mặt đầy u uẩn  của hắn, bảo muốn mua thuốc ngủ phải có giấy của bác sĩ. Nhưng hắn muốn  hỏi, bây giờ con sẽ quay lại đâu, về đâu hay đi đâu? Không ai trả lời  hắn. Khi hắn quay lại ngôi nhà thờ ngày xưa thì vị linh mục già đã không  còn ở đó nữa. 
 Đã ba chiều thứ năm người bạn không đến, hắn tuyệt  vọng, như ngọn đèn thắp lên một ánh lửa nhỏ nhoi trong đêm mịt tối đã  vụt tắt vì mòn dầu. Nên khi chiếc xe trờ tới, và người phụ nữ luống  cuống không biết làm gì, thì hắn lao ra giữa lòng xe cộ đẩy người phụ nữ  khỏi mũi xe chỉ trong chớp mắt. Lúc hai mắt đã thoát khỏi ánh sáng của  chiếc xe, xương gãy kêu lắc rắc trong mình và thân thể tiếp đất sau một  cú bay, trong cơn đau đớn đứt gãy hắn còn níu được một ý nghĩ rời rạc,  mình đâu có chổ nào để về. Sau đó là bóng tối. 
 Chiêm bao thấy mình  nằm dưới tấm vải trắng trùm đến tận đầu, khí lạnh làm khô cứng buồng  phổi của hắn và bóng tối như một thứ khói đặc quánh, có thể sờ được bằng  tay. Nhà xác, người ta đã chuyển hắn đến nhà xác. Bóng tối thâm u len  lỏi và bắt đầu chiếm luôn chút ánh sáng nhợt nhạt còn lại trong mắt hắn.  Hắn không sợ bóng tối, bởi cảm giác này đã quá quen thuộc. Cảm giác của  một kẻ bị bỏ rơi, một kẻ vô hình trước mắt người khác, một kẻ bị khạc  nhổ lên mình sau khi người ta ném những đồng tiền vào mặt. Đó là cảm  giác của một kẻ chỉ còn biết tự bảo vệ bằng cách ẩn mình trong bóng tối. 
 Ý nghĩ tại sao vào đến nhà xác rồi mà cũng chưa chết, tại sao những  người nằm thẳng đơ và được trùm vải trắng trong căn phòng này không phải  là mình làm hắn tức tưởi, và mơ hồ nghe người ta kêu tên mình, lắc tay  mình, nói anh ấy tỉnh lại rồi kìa, anh ơi tỉnh lại đi. Khi ra khỏi vũng  tối đó, hắn hoảng hốt thấy mình còn mở mắt. Một sự thất vọng không thể  kìm chế được trên khuôn mặt khi ánh sáng trở lại. Người ta đã bấm máy  lách tách ngay giây phút đó. Khuôn mặt ấy được đem đi dán trên mấy tờ  báo. 
 Một nhà báo hỏi lúc đó anh đã nghĩ gì? Hắn nói đâu có kịp nghĩ,  chỉ thấy người gặp nạn nên lao ra cứu. Nếu có thời gian mà đứng nghĩ  chắc gì đã dám cứu người, mà nghĩ xong chắc cũng chỉ cần gọi xe cấp cứu.  Câu nói này làm mấy người trầm trồ ghi chép. Đèn lại lóe lên. Nhưng chỉ  mẹ hắn mới biết, con mình đang nói dối, nên mới biểu, bây không được  làm chuyện dại dột đó nữa. Cha hắn không biết chuyện này. Hai ngày ở  bệnh viện ông ít nói ít cười, cả nhìn con mình cũng ít. Cuối ngày khi  xách giỏ về, ông mới nói được một câu cụt ngủn: 
 - Cũng tại ba. Xin lỗi con. 
 Hắn lại cong người về phía mẹ mà khóc. Bên ngoài hành lang cha hắn lảo  đảo ngồi xuống ghế. Hai dòng nước mắt trào ra trên khuôn mặt đã gầy đi  nhiều từ lúc nghe tin hắn bị nạn. Nước mắt đó được ngâm ủ lâu năm, nên  trong vắt. Cha hắn đã hết giận con lâu rồi, nhưng cái buổi chiều cha  đuổi con chạy ngời ngời ngoài đường vẫn còn tươi rói, và lời ông nói tao  có chết cũng không cần bây không biết làm sao để rút lại. Nên ông cần  một cái cớ, dù vô lý như chuyện con ông bị tai nạn để vẽ nên một đường  cho đứa con về nhà. Bà mẹ lấy bàn tay lau nước mắt cho hắn, nói bây khóc  cả chục năm nay chưa đủ sao. Nín đi, rồi còn đứng dậy mà làm lại cuộc  đời. 
 Tất cả những chuyện đó hắn đem kể với linh mục bạn, làm cho  buổi xưng tội giống một cuộc trò chuyện. Hắn nhẹ nhõm, cảm giác như mình  vừa gỡ được một tảng đá khỏi lưng. Linh mục bạn cười, nói bây giờ mình  làm việc mà vị linh mục già ngày xưa phải bỏ lỡ, vì hối nhân đang xưng  tội thì chạy mất. Và hắn thấy bàn tay linh mục bạn đưa lên: 
 - Vậy tôi tha tội cho anh, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần.    | 
 |