|
2. Trạng Thái của Tự Đức đối Với Công Giáo
Chỉ trong mấy ngày mà tình thế khác hẳn. Đâu đâu cũng nhao nhao đồn lên rằng Tự Đức đã đổi lòng, Tự Đức bênh vực Công giáo, Tự Đức muốn theo Công giáo. Có người tung ra giữa dân chúng một tin làm náo động lương cũng như giáo rằng Tự Đức đã đến họ Kim Long trong lúc đêm tối, người ta đổ nước trên đầu ông, ông là một Công giáo thiệt thụ, ông sắp sửa hạ sắc dụ bắt toàn dân theo đạo Công giáo, và diệt tận tuyệt những người không chịu tòng giáo. Dưới đây
11 Tsuboi, op. cit., trg 236.
12 Những thủ lãnh đó là ai? Hồng Tập? Nguyễn Văn Viên? Hướng Văn Chất?
là chỉ dụ công bố tháng 7-1867 của Tự Đức ra sau lúc khám phá được âm mưu của Văn Thân.
Dụ này diễn tả một phần nào trạng thái của Tự Đức đối với Công giáo.
“Lúc Trẫm còn niên thiếu, trẫm đã được hân hạnh kế vị các Tiên đế để làm phụ mẫu chi dân. Vì vậy đối với trẫm, mỗi người dân trong nước đều là con cái của trẫm. Nhiều khi con cái ăn ở tốt lành, nhưng cũng lắm lúc chúng ăn ở ngang tàng xấu xa. Bổn phận của kẻ làm cha mẹ là phải biết dạy dỗ và sửa phạt chúng, nhưng sau khi đã sửa phạt, cha mẹ phải thương mến con cái như trước. Nếu cha mẹ đánh nó là vì muốn cho nó nhận lỗi và hối cải ăn năn.
Cách đây vài năm, Phalangsa và Iphanho đã đến chiếm cứ đất đai của chúng ta. Để kháng cự lại, chúng ta, tất cả đã phải chịu bao nỗi khó khăn, các quan tâu với trẫm rằng: ‘Chính bọn Gia Tô vì không được tự do giữ đạo đã cầu cứu hai nước ấy.’ Do đó, các ông bảo phải phân tháp, phải giam tù tất cả những người Gia Tô để tránh một tai họa lớùn lao. Vì báo cáo sai lầm và đầy mâu thuẫn, tình thế lại bấp bênh, trẫm không biết đâu là sự thật, không biết phải nghe ai, nên trẫm và các quan đại thần đã dùng những biện pháp nghiêm ngặt, nhưng vừa phải. Trẫm là phụ mẫu chi dân, trẫm nỡ nào sát hại những người dân, người con trong nước. Có những quan yêu cầu giết sạch dân Gia Tô, nhưng trẫm không thể chấp thuận một giải pháp như vậy. Trẫm đã dùng một biện pháp nghiêm ngặt nhưng vừa phải là biện pháp phân tháp dân Gia Tô.13 Như thế dân chúng biết lòng trẫm độ lượng đến mức nào?
Những người có phận sự phải thi hành sắc dụ của trẫm, có nhiều ông quan đã dùng dịp này để làm khổ dân đến cực độ. Trẫm rất lấy làm đau lòng vì những hành động trên. Lúc hòa bình về lại, trẫm đã cấp tốc truyền cho giáo dân về quê hương xứ sở để giữ đạo của mình.14
Dầu vậy ở trong nước vẫn có bè đảng.15 Có những đảng thấy mình được che chở, thành thử trở nên kiêu căng tìm cách báo thù làm cho cả toàn dân phải than phiền, đảng khác ghét chúng và tìm mọi cách để phá hoại.
Phần các người Gia Tô giáo, trẫm nhận rằng: Gia Tô giáo ở vào một tình thế khó khăn, nhưng dù sao sự trung thành của Gia Tô giáo đối với Đạo và luật nước làm trẫm hết sức khâm phục. Trong cách đối xử, trẫm sẽ không phân biệt lương hay giáo, nếu Gia Tô giáo còn giữ một
mối thù, tức nhiên Gia Tô giáo không theo lệnh vua, Gia tô giáo sẽ là phiến loạn: Đã là phiến loạn thì còn gì là Gia Tô giáo nữa? Hãy lo tập mình đi đến chỗ toàn thiện ngõ hầu Trời có thể nhận lời cầu xin của dân Gia Tô giáo. Theo những nguyên tắc Gia Tô giáo, chúng ta không nên bận tâm đến danh vọng, đau khổ, khinh chê, phỉ báng.
“Còn Văn Thân, không hiểu các ông đã học ở sách nào để vi phạm luật nước bằng cách tập trung trong các làng để giết hại Gia Tô giáo. Các triết gia đã lên án vũ lực, các ông không có quyền hoạt động như thế. Nếu hoạt động vì thù hằn nhau, không những ngườụi này sẽ nuốt
người kia, như cá lớn nuốt cá bé ở ngoài biển, mà có khi sẽ nổi lên chống chính quyền, như vậy sẽ gây ra không biết bao là tai hại. Ai sẽ chịu trách nhiệm về những vụ lộn xộn, phải chăng là Văn Thân?
“Các ông đã báo cáo Gia Tô giáo âm mưu nổi loạn, nhưng vô bằng cớ. Cái có bằng cớ là Văn Thân, người có chữ nghĩa sao lại ăn ở như thế được? Người Công giáo đã bị bạc đãi, nhưng không phải vì họ có lỗi, vì họ đã theo một thứ đạo khác hẳn với đạo chúng ta làm chúng ta
nghi ngờ họ. Nay hòa bình đã trở về lại. Lòng người Gia tô giáo hân hoan và họ đã quên hẳn tất cả những nỗi đau khổ nhục nhã của họ, vậy sao Văn Thân còn sợ Gia Tô giáo thù oán? Một người Gia Tô giáo trước lúc hoạt động phải suy xét công việc mình được làm hay không được
13 Biện pháp vừa phải, nhưng cũng đã làm cho 50,000 Công gíáo phải thiệt mạng. Xem Chương Hai Mươi Ba, số VIII.
14 Thật ra Tự Đức ra lệnh như vậy vì phải thực thi Hiệp ước 1862.
15 Văn Thân.
phép làm. Nếu người Gia Tô giáo không tuân theo luật, người ấy đã phạm lỗi với đạo. Vả lại, chính phủ có đủ sức để dẹp yên mọi cuộc âm mưu dấy loạn.”16
Trong dụ có nhiều điều sai lạc, nhưng một điều không chối cãi được là Tự Đức ca tụng lòng trung thành của người Công giáo và công nhận người Công giáo đã bị vu oan. Khi Giám mục Sohier ở Pháp về, chín tiếng đại bác nổ vang chào mừng lúc ngài đến hải cảng. Tự Đức còn truyền cho một phái đoàn gồm các quan đại thần tới chào mừng giám mục tại dinh người. Thái độ của Tự Đức thay đổi nhiều và nó có giá trị hơn một sắc dụ.
Thái độ ấy lại rất rõ ràng từ ngày mất Nam Kỳ. Tự Đức muốn tìm hiền tài để giúp vua chống Pháp. Riêng đối với giáo dân, Tự Đức cũng khoan dung chấp nhận, không còn khắt khe như trước. Năm 1857, nhà vua hạ lệnh đánh cả trăm trượng hai Nho sinh Lương Trợ Lý và Hoàng Hữu Phu ở Quảng Bình chỉ vì dám xin vua khoan dung cho giáo dân và dám thẳng thắn nói: “Không thể cưỡng bức nhân dân bỏ đạo,” thì nay Tự Đức đã lắng nghe bản điều trần Giáo Môn Luận17 của Nguyễn Trường Tộ. Vua lấy làm cảm động khi bản điều trần xác minh về tinh thần yêu nước của người dân theo Gia Tô giáo.18 Tự Đức hành động như vậy vì có một sự thay đổi sâu xa trong thái độ của ông đối với Công giáo.19
Nhận thấy trạng thái của vua đã đổi, Giám mục Sohier cho xây cất một ngôi nhà thờ khá đẹp. Lúc nhà thờ hoàn thành, ngài tổ chức một cuộc rước kiệu Thánh Thể lớn lao vĩ đại. Toàn dân giáo lẫn lương đến dự cuộc rước kiệu. Thế rồi mỗi năm, ngài vẫn tổ chức những cuộc kiệu lớn lao ấy mà không bị phiền hà. Chính phủ Việt Nam hoàn toàn tôn trọng sự tự do tín ngữơng của dân chúng.
16 Mark McLeod, The Vietnamese Response to French Intervention, 1862-1874, page 90-91, “Were this document a
veritable imperial edict, it would constitute conclusive proof of Phan Phat Huon’s assertion that the Tu Duc
Emperor’attitude toward the Vietnamese Catholics underwent a profound transformation during the years following
the 1862 treaty. Yet the authenticity of the document is ques-tionable. The ideas expressed therein are
uncharacteristic of the Tu-duc Emperor’s attitudes as they can be seen in pre-war and wartime documents of his
certain autorship, which obliges Phan Phat Huon to meet a heavy burden of proof. This he does not do; he cites no
source for the document, and the only date indicated is the imprecise ‘after the discovery of the scholars plot,’ by
which he perhaps means the examination field rebellions of 1864. Several lin-guistic anomalies and cultural
incongruities further render the document suspect.
“A possible answer is that it is the author’s own translation into Vietnam-ese of an alleged imperial edict published
in Frech translation in the Annals de la Propagation de la Foi, volume XXXVIII, 1865. The document published
there was reproduced from a letter of Father Bernard to Monsignor Sohier in Septemvber 1864. Father Bernard did
not supply a precise date or copy of the original for comparison with his translation. In any case, it would be
dangerous to place much credence in the genuineness of the Viêtnamese-language docu-ment presented by Phan
Phat Huon as an edict authored by Emperor Tu-duc.
“Several imperial documents of certain authenticity issued in relation to the Nghe -tinh rising of 1874 supply
conclusive evidence that even the more nuanced argument of Tran van Giau for a subtle change in Tu-Duc’s attitude
is untenable. Since the purpose of citing these documents is only to refute the ar-gument that there was a change in
Tu-duc’s attitude toward the Catholics.”
Về sự thay đổi thái độ của Tự Đức, xem:
- Louvet, op. cit., Tập II, trg 413 và tiếp.
- Thư của Lm. Bernard gởi Gm. Sohier 17-9-1864 in ở trong Annales de la Propagation de la Foi, Tập XXXIII, trg
325-327.
- Tuck, French Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Viet Nam 1857-1914, trg 181-188.
- Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam (Sài Gòn, 1974), Tập III , trg 542, 543 (Ronéo) ghi: “Vua Tự Đức
thay đổi hẳn thái độ đối với người Công giáo...” Thái độ được giải bày trong một sắc dụ được ban hành vào tháng 7
năm 1867.
17 Essay on The Threshold of the Religion.
18 Cao Thế Dung, Việt Nam Huyết Lệ Sử (New Orleans, 1996), trg 228.
19 Để trả lời Mark Mc Leod, The Vietnamese Response to French Intervention 1862-1874, trg 90-91.
Hình 45: Hình phạt đối với các tín hữu không chịu quá khóa.
Cũng vào thời ký ấy, Tự Đức nhận được một bức thư nặc danh. Trong bức thư ấy, kẻ vô danh cáo Giám mục Sohier khi đi Pháp về đã mang theo nhiều ký thuốc độc để âm mưu giết vua và đình thần. Xong công việc tội ác này, giám mục với sự giúp đỡ của dân Công giáo, sẽ cướp
ngôi vua. Theo chương trình, quân đội Pháp sẽ giúp vào một tay để chém giết những người lương không chịu tòng giáo. Tự Đức mỉa mai nói với các quan rằng: “Vì các khanh sợ thừa sai bỏ thuốc độc, tôi cấm ngặt các khanh đến nhà các thừa sai.” Thế là các quan mất dịp làm tiền vì không được mon men đến nhà các thừa sai nữa, và đồng thời các thừa sai được an dạ truyền giáo mà không còn ai dám đến quấy rầy.
Từ lúc Việt Nam ký tờ hòa ước với Pháp, Tự Đức không bao giờ mỉm cười. Năm 1862 tóc ông trở nên trắng bạc mặc dù lúc ấy mới 33 tuổi. Trong sắc dụ ra năm 1867, Tự Đức công nhận vì lỗi của ông nên Trời đã giáng họa xuống cho dân chúng.20
Tự Đức mở mắt không những về vấn đề tông giáo mà ngay về vấn đề chính trị. Ông thành thật xin chính phủ Pháp giúp đỡ về đường binh bị. Vì thế ông kêu mời nhiều sĩ quan Pháp tới Huế để thiết lập một trường Võ bị. Đồng thời Tự Đức nhân dịp Giám mục Sohier về Pháp
cũng nhờ ngài chiêu mộ các giáo sư đến Việt Nam mở một Đại Học Đường theo lối Âu Châu tại kinh thành Huế. Nhưng vì các quan triều đình ghen tương và hẹp hòi làm các sĩ quan Pháp không thể chịu đựng được thái độ của các ông và cũng vì các quan phản đối quyết liệt nên hai việc ấy đều không thành.
20 Louvet, op. cit., Tập II, trg 439.
Năm 1869, vua Tự Đức ra hai sắc dụ bênh vực người công giáo. Sắc dụ thứ nhất Tự Đức cho phép người Công gíáo được tập họp thành những làng riêng biệt, được có những lý trưởng Công giáo. Trong sắc dụ thứ hai, Tự Đức cấm ngặt người lương không được nhục mạ người
Công giáo và cũng không được quấy rầy họ về những lễ nghi tông giáo. Chính Gia Long cũng không bao giờ ra sắc dụ có tính cách ủng hộ người Công giáo như Tự Đức. Tiếc một điều là Tự Đức không còn đủ uy tín để bắt các quan và dân chúng theo những huấn lệnh của ông.
3. Văn Thân Sát Hại Công Giáo Nam Định (1868)
Từ lúc Pháp chiếm ba tỉnh miền Nam, Văn Thân ở Bắc hình như không còn muốn tuân theo lệnh của triều đình Huế nữa, lấy cớ rằng để chống Pháp trong trường hợp Pháp đổ bộ lên đất Bắc. Các Văn Thân ở những tỉnh Ninh Bình và Nam Định thành lập những đội quân lưu động đặt dưới quyền của mộỉt quan thượng hồi hưu 21 rất có uy thế mà dân gọi là Hoàng Giáp Tam Đăng.22 Ông có uy thế vì tất cả các ông tú tài, cử nhân, cùng một số đông các quan chức là cựu học sinh của ông. Triều đình không bao giờ ưng thuận sự thành lập những đội quân lưu động kia và ra giấy giải tán, nhưng các quan làm lơ không muốn tuân theo lệnh của triều đình.23
Ngày 14-1-1868, Văn Thân vây đánh làng Kẻ Trình và các họ đạo ở Nam Định. Họ đốt nhà thờ, nhà các bà phước và 30 nhà người Công giáo. Người Công giáo kháng cự lại và bắt giữ hai Văn Thân trong số đó có ông Tú Đường. Tú Đường bị triều đình lên án giảo giam hậu, nhưng vua muốn xử hòa hai bên nên ra lệnh phạt cha xứ Kẻ Trình. Đồng thời quan án Nam Định bị triệu về Kinh. Khi đi qua Nghệ An, ông ta xúi giục dân chúng đốt các làng có đạo.
Nhận thấy tình hình căng thẳng, các giám mục lo sợ lệnh cấm đạo có thể truyền ra trong nay mai, nên lại cấp tốc truyền chức cho ba giám mục phó. Giám mục Barnabé Garcia Cézon Khang giáo phận Trung Đàng Ngoài truyền chức cho cha Emmanuel Riano Hoà; Giám mục John Gauthier giáo phận Nam Đàng Ngoài truyền chức cho cha Yves Croc; và Giám mục Joseph Theurel giáo phận Tây Bắc Việt truyền chức cho cha Paul Puginier. Giám mục Theurel trước lúc
qua đời đã có công lập chủng viện tại Phúc Nhạc.
4. Pháp ở Bắc Kỳ
A. Jean Dupuis và Francis Garnier
Đang lúc việc giao thiệp Việt-Pháp lâm vào giai đoạn khó khăn, Jean Dupuis đến làm cho việc giao thiệp càng khó khăn thêm.
Jean Dupuis là một thương gia Pháp. Được sự khích lệ của bộ trưởng hải quân Pothuan và viên toàn quyền Pháp ở Sài Gòn,24 Dupuis muốn mở đường mậu dịch ở Bắc và Vân Nam bên Trung Hoa. Dupis cương quyết muốn dùng sông Hồng Hà để mở một con đường thủy lên Vân
21 Morey, Mrg. Theurel, trg 212.
22 Ravier, Sử Ký Hội Thánh (Hà Nội, 1934), Tập III, trg 569.
- Annals of the Propaganda of the Faith, Tập XL, trg 441, 1868. Thư của Giám mục Theurel, giáo phận Tây Đàng
Ngoài ngày 18-2-1868 gửi cho Bề Trên thừa sai Pháp.
23 Dương Kinh Quốc, Việt Nam (Hà Nội, 1981), Tập I, trg 115. Tháng 2-1868, giáo dân Nam Định nổi dậy chống
Văn Thân. Võ Huy Sĩ, Bùi Huy Kỳ và một số người đề nghị với triều đình cho họ được tự trang bị vũ khí để tiêu
diệt cha cố và giáo dân trong tỉnh. Tự Đức không chấp thuận và quyết định nhờ các giáo sĩ người Pháp dàn xếp với
giáo dân Nam Định. Xem:
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 4-12-1873, Tờ 53-55, CRO 2: CB 385.
24 Louvet, Vie de Mgr. Puginier (Hà Nội, 1894), trg196.
- Tuck, Thừa Sai Công Giáo Pháp (TPHCM, 1989), trg 781-784, 786-790.
Nam. Tháng 11-1872, ông tới Hải Dương, và nơi đây ông gặp thuyền trưởng Senez chỉ huy chiếc Bourayne. Nhờ Senez giới thiệu, Dupuis được yết kiến ông Lê Tuấn, trấn thủ Hải Dương.
Ông trấn thủ khước từ không cho phép Dupuis tiếp tục hành trình trên sông Hồng Hà, vì chỉ nhà vua mới có quyền ban phép ấy. Dupuis bèn yêu cầu ông trấn thủ vận động với triều đình Huế để ông được tiếp tục đi đến Vân Nam. Dupuis phải đợi lệnh từ triều đình Huế khoảng 2
tuần. Hai tuần trôi qua không thấy có giấy tờ gì ở Huế đến, và Dupuis tự tiện cho tàu chạy lên Hà Nội, trái với luật lệ hiện hành ở trong nước.25
Vừa tới Hà Nội, quan quân Việt Nam rất bỡ ngỡ và lập tức điều động binh sĩ đề phòng.
Dupuis đến đây cũng xin phép lên Vân Nam, nhưng các quan trả lời phải đợi lệnh triều đình. Lúc này Dupuis nảy ra ý kiến muốn gặp Giám mục Puginier. Các quan cũng viết thư rất lịch sự mời
Giám mục tới Hà Nội với hy vọng rằng Giám mục Puginier sẽ thuyết phục Dupuis bỏ ý định tiếp tục đi Vân Nam, là một việc mà nhà đương cục Hà Nội không thể cho phép, không phải vì muốn
làm khó dễ hay xảo trá như các sử gia Pháp diễn tả,26 nhưng vì nhận thấy trong đoàn thuyền của Dupuis có hai chiếc pháo hạm Hôàng Giang và Lao Kay kéo theo sau một chiếc ghe Sơn Tây
khổng lồ chở 7.000 súng truờng Chassepot, 30 khẩu đại bác và 15 tấn đạn dược.27
Nhà đương cục Hà Nội trông cậy Giám mục Puginier dùng thế lực của người khuyên dụ Dupuis ở lại để chờ giấy phép triều đình Huế, bằng không, phải kéo tàu lui về. Rõ ràng Dupuis phạm đến luật hiện hành trong nước và luật này là một luật hữu lý vì chẳng có chính phủ nào cho phép người ngoại quốc được tự do chuyên chở khí giới lưu thông trong nước mình cả. Hơn nữa Dupuis là một người Pháp và lúc ấy Pháp vừa dùng võ lực để chiếm Cửa Hàn và ba tỉnh Nam
Kỳ. Rất tiếc vì Giám mục Puginier chưa hiểu rõ tình thế nên mới yêu cầu nhà chức trách Hà Nội cho tự do lưu thông trên sông Hồng Hà. Ngài tưởng như vậy sẽ có lợi cho Pháp và nhất là cho Việt Nam.
Lúc tướng Hoàng Kế Viêm28 vâng lệnh triều đình Huế đến Hà Nội. Ông bàn thảo trong hơn một tiếng đồng hồ với giám mục nhưng không đi đến một kết quả nào. Chính phủ Việt Nam muốn giải quyết vấn đề được ổn thỏa nên nhờ chính phủ Pháp giàn xếp. Không ngờ chính phủ Pháp lấy dịp này để chiếm đất Bắc Kỳ.29 Đô đốc Dupré lúc ấy chỉ huy toàn lực lượng Pháp ở Sài Gòn, bề ngoài nghĩa là đối với chánh phủ Việt nam xem ra không thừa nhận công việc của
Dupuis, nhưng Dupré ngầm giúp Dupuis để mở con sông Hồng Hà cho tàu buôn Pháp.
Hiệp ước 1862 trở nên vô giá trị vì Pháp đã vi phạm Hiệp ước ấy bằng cách dùng võ lực chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867. Đang lúc hai chính phủ còn đang thương thuyết, Dupuis không kể gì đến pháp luật, và cứ tiếp tục đi Vân Nam rồi trở về Hà Nội với 150 binh sĩ Trung Hoa. Thấy thế nhà đương cục Hà Nội tịch thu thuyền của Dupuis là một việc hữu lý. Theo lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam, đô đốc Dupré gởi đến Hà Nội đại úy Francis Garnier.
Sứ mạng của Francis Garnier là trục xuất Dupuis ra khỏi Bắc Kỳ, vì sự hiện diện của Dupuis ở Hà Nội là bất hợp pháp và chính Dupré cũng công nhận như vậy.30 Nhưng sứ mạng của
25 ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 7-1-1873, Tờ 19-24, CRO 2: CB 381
26 Louvet, op. cit., trg197-205.
27 Masson, Souvenirs de l’Annam et du Tonkin (Aix-en-Provence, 1892), trg 49.
28 Tuck, op. cit., trg 798. Viêm là con rể của Minh Mạng, và là quan trấn thủ Nghệ An, thống lãnh binh lính ở Tonkin.
29 Louvet, op. cit., trg 214. Thư của Francis Garnier gởi cho Giám mục Sohier ở Huế viết tại Sài Gòn đề ngày 6-10-
1873 đã bày rõ âm mưu của Pháp xâm chiếm Bắc Việt, “Il s’agit bien évidemment d’assoir l’influence fracaise aux
bords du fleuve Rouge et préparer au Ton-King un véritable protectorat.”
30 Ibid, trg 212.
- Tuck, op. cit., trg 780-781.
Garnier đâu phải bấy nhiêu. Dupré còn giao phó cho Garnier sứ mạng dùng võ lực bắt ép chính phủ Việt Nam phải để cho tàu lưu thông tự do trên sông Hồng Hà.31 Mọi dữ kiện xảy ra chứng minh Pháp muốn dùng vũ lực để can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Hơn nữa Dupré viết nhiều bức thư cho các giám mục xin các ông và dân Công giáo ủng hộ công cuộc của Garnier. Nhận được thư của Dupré, các giám mục rất lấy làm phân vân và lo lắng. Nếu chiến tranh bùng nổ giữa Việt Nam và Pháp, số phận của người Công giáo sẽ vô cùng long đong. Biết thế, nên Giám mục Antonio Colomer Lễ, giáo phận Đông Đàng Ngoài, trả lời dứt khoát cho Dupré biết rằng ông và các bổn đạo hoàn toàn nằm ngoài vòng những biến cố chính trị đang xảy ra và sẽ xảy ra sau này. Giám mục ở giáo phận Trung Đàng Ngoài cũng trả lời cho đô đốc tương tợ như vậy.
Lúc vừa đến Bắc Việt, Garnier cũng phân phát một tờ công bố trong đó ông xúi giục Công giáo khiếu nại với ông về cách cư xử tàn tệ của các quan đối với họ.
Theo mật lệnh của Dupré, Garnier phải liên lạc với những người dòng dõi nhà Lê để mưu toan lật đổ Tự Đức,32 tạo nên sự hỗn loạn trong nước. Trong lúc dó Pháp sẽ thừa nước đục thả câu và khống chế Bắc Kỳ cũng như họ đã làm ở Nam Kỳ. Giám mục Puginier khuyên Garnier đừng liều lĩnh hoạt động thiếu khôn ngoan như vậy và ngài ra lệnh cho người Công giáo Việt Nam không được cộng tác với Pháp trong bất cứ trường hợp nào.
Sứ mạng của Francis Garnier là đuổi Dupuis ra khỏi Bắc kỳ. Chúng ta thấy rõ nếu Garnier đã đi quá sứ mạng ấy không phải vì Giám mục Puginier đã khuyến khích ông, nhưng vì nhà đương cục Pháp mà Dupré là đại diện, ra lệnh cho ông đặt nền móng bảo hộ ở Bắc kỳ.
Lúc đến Hà Nội Garnier viết thư mời Giám mục Puginier và các quan Việt Nam cũng mời ngài đến Hà nội. Thống tướng Nguyễn Tri Phương cũng như tướng Hoàng Kế Viêm hội kiến với Giám mục Puginier để yêu cầu ngài can thiệp vào trường hợp Dupuis.33 Tất cả những cuộc dàn xếp thất bại vì một bên cố tình gây hấn, và một bên thành thật ôn hòa, mặc dầu phải giữ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình.
Thế rồi Francis Garnier gởi tối hậu thư cho Việt Nam và hạ thành Hà Nội hôm 20-11-1873. Xong Garnier đi chiêu mộ ở các tỉnh được 14.000 thân binh trong số đó chỉ có 2.000 Công giáo.34 Không đầy một tháng, quân đội Pháp đánh chiếm Ninh Bình, Phủ Lý và Nam Định.
B. Philastre
Được tin Pháp đánh Hà Nội, chính phủ Việt Nam phái Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Gia Hội và Giám mục Puginier35 ra Hà Nội điều đình. Đồng thời, sau lúc sứ Việt
31 Louvet, op. cit., trg 213. Muốn rõ về vụ Dupuis đọc:
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 22-1-1873, Tờ 49-55, CRO 2: CB 381.
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 24-1-1873, Tờ 61, CRO 2: CB 381.
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 13-5-1873, Tờ 140-141, CRO 2: CB 287.
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 16-8-1873, Tờ 60-61, CRO 2: CB 237.
32 Louvet, op. cit., trg 220.
33 Phan Xuân Hòa, Lịch Sử Việt Nam (Sài Gòn, 1956), Tập IV, trg 150.
- Nguyễn Văn Quế, Histoire des pays de l’Union Indochinoise (Sài Gòn, 1932), trg 178 chép rằng Giám mục Puginier làm thông ngôn. Như thế là không đúng. Giám mục Puginier đến Hà Nội nhiều lần theo lời yêu cầu của các nhà đương cục Hà Nội để dàn xếp việc Dupuis. Sau cuộc hội kiến Thống Tướng Nguyễn Tri Phương đã nhân danh
Tự Đức ban huy chương vàng cho Giám Mục. Xem Louvet, op. cit., trg 200-210.
34 Louvet, op. cit., trg 225.
35 Giám mục Sohier (Bình) cai quản giáo phận Huế được Tự Đức phái ra Hà nội điều đình với Pháp về vụ bạo động của Garnier.
- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (Sài Gòn, 1954), trg 515 và Phan Xuân Hòa, op. cit., Tập IV, trg 151 ghi là Giám mục Bohier. Dự kiện này không đúng, xem:
Nam báo tin cho Súy phủ Pháp ở Sài Gòn việc bạo động của Garnier, chính phủ Pháp gởi ông Philastre cùng đi với phó sứ Nguyễn Văn Tường ra Bắc.36 Lúc vừa tới Bắc, hai ông được tin Francis Garnier đã bị giết ở tại Cầu Giấy.
Philastre là một người điềm đạm37 nhận thấy việc Dupuis và Garnier làm là những việc bất hợp pháp. Ông liền ra lệnh quân Pháp phải trả lại cho Việt Nam các thành trì đã chiếm cứ và buộc quân đội Pháp xuống tàu vô Nam.
5. Văn Thân Sát Hại Công Giáo (1874)
A. Giáo Phận Tây Đàng Ngoài
Biết trước nếu quân Pháp triệt thoái khỏi Bắc Việt, Văn Thân sẽ nổi lên sát hại Công giáo vịn cớ là Công giáo đã theo Francis Garnier đánh lại quân chính phủ Việt Nam,38 Giám mục Puginier đề nghị với Philastre tạm nán lại một thời gian để các quan Việt Nam có đủ thì giờ tập trung binh sĩ, giữ trật tự và lúc quân đội Pháp rút lui các quan có phương tiện che chở các người Công giáo khỏi bị Văn Thân sát hại. Nhưng Philastre không đếm xỉa gì đến lời yêu cầu hợp lý
ấy. Ngày 8-1-1874, quân đội Pháp triệt thoái Ninh Bình. Ba ngày sau, 14 làng Công giáo bị Văn Thân kéo đến quấy nhiễu đốt phá liên tiếp trong 10 ngày liền. Một linh mục bị giết, và những giáo hữu khác phải chạy thoát lên núi.39
Trong giáo phận Tây Đàng Ngoài, dưới quyền cai quản của Giám mục Puginier, có 3 linh mục, 25 thầy chủng sinh hoặc thầy giảng, từng trăm bổn đạo bị giết, 107 họ đạo bị phá hủy. Giáo phận bị tổn hại đến 200.000 phật lăng và anh em giáo hữu từng triệu phật lăng.40
B. Giáo Phận Nam Đàng Ngoài (Vinh)
Giáo phận Tây Đàng Ngoài bị tổn thất nhiều có lẽ vì Giám mục Puginier đã có một phần nào trách nhiệm trong vụ Dupuis hoặc vì có một số ít giáo hữu của giáo phận đi lính cho Garnier.
Đối với giáo phâỉn Nam Đàng Ngoài chính phủ cũng như Văn Thân không thể cáo người Công giáo theo Pháp. Vậy mà ở Nghệ An, hai ông Tú Trần và Đặng Như Mai hội tập tất cả các Văn Thân trong hạt, làm bài hịch gọi là “Bình Tây Sát Tả,” rồi kéo nhau đi sát hại người Công giáo.
Giám mục Gauthier nhận thấy các quan triều đình không dùng một phương pháp nào để ngăn cản phong trào dấy loạn giết hại Công giáo, ngài liền ban phép cho Công giáo cầm khí giới để tự vệ, rồi giám mục viết thư cho các quan:
“Công giáo đã cầm khí giới không phải đề chống lại chính quyền, nhưng để bảo vệ mạng sống mình. Đã có từng nghìn người Công giáo bị sát hại, các quan đã làm gì để chận đứng cuộc sát hại đó?”41
- Launay, Histoire Genérale des Missions (Paris, 1894), Tập III, trg 502.
- Louvet, Vie de Mgr. Puginier (Hà Nội, 1894), trg 233.
- Olichon, Le Père Six (Paris, 1935), trg 73.
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 12-10-1873, Tờ 49, CRO 2: CB 287.
36 Dương Kinh Quốc, op. cit., Tập I, trg 159.
- ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ XXVI, 28-10-1873, Tờ 82, CRO 2: CB 287.
37 Louvet, op. cit., trg 225 chỉ trích Philastre một cách quá đáng. Muốn biết sự thật về hoạt động của Philastre, xem:
- Trần Trọng Kim, op. cit., trg 516-517.
38 Trần Trọng Kim, op. cit., trg 520.
39 ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ, Tập 33, trg 28, 29.
- Ibid, Tập 31, trg 123.
40 Louvet, op. cit., trg 520.
41 Launay, op. cit., Tập III, trg 503.
Thật vậy, đã có 4.500 bổn đạo bị giết và 300 họ đạo bị phá hủy. Bổn đạo bị tổn thất hơn 6 triệu phật lăng. Vào cuối tháng 3- 1874, Tự Đức ký tờ Hiệp ước với Pháp rồi sai Nguyễn Văn Tường làm khâm sai và Lê Bá Thuận đem quân ra đánh dẹp Văn Thân. Từ bấy giờ, Văn Thân
chẳng đốt giết nữa, nhưng họ dùng vũ lực chống chính quyền. Ngày 30-5- 1874, Văn Thân chiếm Hà Tĩnh và cách mấy ngày lại lấy 5 phủ thuộc Nghệ An. Khoảng 20.000 Văn Thân vây Nghệ An. Quan quân chính phủ sắp ra đầu hàng thì bỗng có một toán 200 binh sĩ Công giáo
cướp được một đồn của Văn Thân, giết một tướng giặc tên là Tú Cừu và 30 quân rồi cứ kéo lên tỉnh, toán khác theo sau, giải vây cho quân của chính phủ, và giúp quân chính phủ chiếm lại các phủ huyện.
Hình 46: Những địa điểm Công giáo bị sát hại (1859-1888).
C. Phát Diệm - Cụ Sáu, Trần Lục
Lúc Trần Đình Lục, Nguyễn Văn Hợp và Giám mục Sohier đến Ninh Bình, linh mục Trần Văn Lục mà người ta thường gọi là Cụ Sáu đưa các ông về Hà Nội. Nghe tin Philastre sắp cho quân đội Pháp triệt thoái, cụ Sáu về Phát Diệm vì người đoán thế nào cũng có việc lôi thôi xảy ra. Văn Thân sau khi sát hại Công giáo Hà Nội và Nam Định, sắp sửa hướng về Phát Diệm.
Để bảo vệ Phát Diệm, Cụ Sáu tung ra tin vịt là quân Pháp chiếm Phát Diệm. Văn Thân lập tức quay lui.
Cũng trong thời kỳ này, cụ Sáu được triều đình mời về Ninh Bình để thu xếp giảng hòa giữa lương và giáo.42 Dân sự rất lo ngại thấy ngài về Ninh Bình, vì nơi đây đã có hai linh mục bị giết. Nhờ tài khôn khéo, cụ Sáu thu xếp và đem bình an lại cho dân chúng rồi ông trở về Phát Diệm giữa sự hân hoan của giáo dân. Tự Đức và triều đình nghe tin, gởi giấy ban khen.43 Đang lúc tình hình ngoài Bắc hỗn loạn do Văn Thân quấy rối thì ở Trung và Nam tạm yên. Tuy nhiên một vài quan cố ý nhân dịp ấy âm mưu giết hại Công giáo, nhưng họ cũng không thực hành được như ý muốn.44
II. CẦN VƯƠNG SÁT HẠI GIÁO DÂN
(1885-1888)
Kiệt sức vì chính sách tàn sát Gia Tô giáo nên không thể đương đầu với Pháp xâm lăng, Việt Nam bắt buộc phái ký 3 hiệp ước năm 1862, 1874 và 1883, nhìn nhận quyền bảo hộ của Pháp trên Việt Nam. Sau lúc Tự Đức mất, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự do tung
hoành. Năm 1885, các ông ra lệnh đánh úp quân Pháp tại Huế và rước Hàm Nghi trốn ra Quảng Trị. Sau đó Văn Thân khắp nơi nổi lên giết giáo dân một cách công khai và gây nên một phong trào có mục đích Bình Tây Sát Tả và lấy tên là Cần Vương.
1. Ở Bắc Kỳ
A. Giáo phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội)
Từ lúc vua Hàm Nghị bỏ cung điện chạy trốn, Cần Vương khắp nơi nổi lên chém giết giáo dân một cách không thương tiếc. Trong giáo phận Hà Nội, tại xứ Đoài,45 giáo dân tại 5 làng Công giáo phải chạy trốn. Linh mục Cấp ở xứ Đoài bị quân Cờ Đen bắt. Họ chôn sống ngài, đầu lộn xuống, hai chân lòi ra khỏi mặt đất, mang một tấm bảng có viết mấy chữ “bọn theo tả đạo phải bị giết như thế này.” Khi quân Cờ Đen và Cần Vương uy hiếp nhà chung Hà Nội, Công giáo Thạch Bích đứng ra chống giữ nhưng chúng vẫn lọt vào bên trong, bắt cóc một số trẻ em, xẻo tai các em, buộc thành một vòng hoa máu rồi đem choàng vào cổ tượng Đức Mẹ nơi hang đá 46 của nhà chung.
42 Olichon, op. cit., trg 48.
43 Ibid, trg 78.
44 Phan Đình Phùng đang lúc làm tri phủ Yên Khánh cho lệnh đánh cụ Sáu “vì hay ỷ thế tông giáo hà hiếp lương dân.” Xem:
- Đào Trinh Nhất, Phan Đình Phùng (Sài Gòn, 1950 ), trg 19 và được David G. Marr nhắc lại trong Vietnamese Anticolonialism (California University Press, 1981), trg 61 nhưng không thấy ghi ở trong các sách hạnh của linh mục.
45 Xứ Đoài gồm các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang.
46 Chuẩn Bị Tinh Thần Mừng Lễ Phong Thánh (tài liệu học hỏi, USA, 1988), trg 114.
|
|