|
- Trong Lãnh Vực Kinh Tế
Ông chủ trương kiểm tra tài nguyên, khai thác triệt các nguồn lợi quốc gia, kêu gọi đầu tư của tài phiệt quốc nội và hải ngoại, đặt sở thống kê để hàng tháng hàng năm biết mức trồi sụt của các ngành,37 và đặt quan thuế mới đánh vào cách ăn chơi xa xỉ (cờ bạc, rược chè, thuốc lá, thuốc phiện) để khuyến khích sự tiết kiệm và điều độ. Nhà nước tăng thuế các hàng nhập cảng, thứ nhất là xa xỉ phẩm và các hàng trong nước đã có để khuyến khích tiêu thụ hàng nội hóa và công
nghệ bản quốc. Trong lãnh vực này ông chủ trương không chỉ làm giầu cho công quỹ, mà còn phải lo tính cho dân trong nước làm giàu. Bởi vậy ông thôi thúc:
- Tổ chức một số địa dư và vẽ họa đồ để biết hình thể và tài sản trong nước rồi mới theo đó mà khởi hành các công tác như đường sá, đê điều, dẫn thủy nhập điền v.v...
- Chấn hưng nông nghiệp bằng cách đặt nông quan và các cơ sở chuyên môn để cải lương cách làm ruộng, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, kinh lý việc dẫn thủy nhập điền, v.v. (Điều trần số 53 năm 1871)
- Chấn hưng công nghệ, khuyến khích và ban thưởng cho những người sáng chế những đồ dùng mới mẻ và tiện lợi, hoặc tìm ra cách chế hóa đồ ăn, đồ uống cho hương vị tăng lên hay để lâu mà không hỏng.
- Chấn hưng thương nghiệp, khuyến khích và ban thưởng cho những người biết hợp cỗ để buôn bán, hoặc đóng và mua được các tàu biển để thông thương với các nước khác.
- Khai khẩn các mỏ.38
Ông bàn lúc đầu phải cộng tác với các công ty khai mỏ người Pháp để họ đứng chủ trương việc tìm khoáng sản, trông nom cách khai mỏ và huấn luyện các thợ chuyên môn để sau này người nước ta có thể thay họ mà làm các việc ấy được. Ông lại xét cẩn thận các điều khoản
về bản hợp đồng phải ký với công ty ấy thế nào để cho lợi và tránh những sự xung đột về sau.
- Trong Lãnh Vực Giáo Dục39
Sau lúc chỉ trích những sai lầm và thiếu thốn của lối học cũ, ông đề nghị:
- Cải cách việc học và thi cử trong nước. Ông quan niệm “Cho người ta một con cá thì chỉ nuôi sống một ngày, nhưng nếu cho người ta một cái lưới đánh cá thì có thể nuôi sống cả đời.”40 Do đó ông chủ trương mở trường bách nghệ dạy các khoa thực dụng như canh nông, thiên
văn, cơ khí và định lại chương trình thi cử là không chỉ có văn chương mà còn phải có các môn khoa học hợp thời.41
- Dùng quốc văn (viết bằng chữ Nôm mà ông gọi là Quốc Âm Hán tự) trong việc dạy học, làm sách và các giấy tờ việc quan. Ông chỉ trích sự bất tiện của chữ Nho khiến các nhà Nho thủ cựu ở triều đình phải bực tức, và do đó họ tìm cách ngăn chận cuộc cải cách do ông chủ
trương.42
37 Trương Bá Cần, op. cit., Dụ Tài Tế Cấp Bẩm Từ: Điều Trần 5, 1864 chỉ dẫn người dân cách thức trở nên phát đạt
sung túc hơn.
- Điều Trần 53 năm 1871 về nông nghiệp; Điều Trần 5 về kinh tế; Điều Trần 27 khoản 3 về thuế má.
38 ĐNTL - ĐIVK, CBTTĐ, Tập 31, trg 33.
- Điều Trần 8 - Khai Hoang Từ.
- Trương Bá Cần, op. cit., trg 159.
39 Điều Trần 18, 1-9-1866.
40 Thái Văn Kiểm, Phương Đông Giai Phẩm Hướng Về Dân Tộc, trg 29.
41 Dương Quảng Hàm, op. cit.. Nguyên Chương 4 đề cập về đề nghị cải tổ của Nguyễn Trường Tộ trong mỗi lãnh
vực.
42 Ông Tộ chắc đã biết đến các sách in bằng tiếng Quốc ngữ như Bài Giảng Tám Ngày (Cathechismus) hay Tự điển
Việt-Bồ-La của Cha Đắc Lộ xuất bản tại Vatcan năm 1651. Ông cũng có thể biết đến cuốn Nam Việt Dương Hiệp
Tự Vựỉng của Taberd, có thể in trước 1840. Tuy nhiên ông lại không đề nghị lấy tiếng Quốc ngữ thay thế chữ Nho.
- Du học (điều trần 17-7-1866): Nên gửi nhiều học sinh đi học ở ngoại quốc, và khuyến khích việc dịch thuật phổ thông ngoại ngữ như Espanha, Anh, Pháp, Nhật, Miên, Lào. Việc giáo dục ông chú trọng nhiều về đào tạo con người có kỷ thuật thực dụng (homo faber) hơn là con người trí thức thuần túy (homo sapi-ens). Do đó ông cũng chủ trương cải tổ hoàn toàn phương thức thi cử tuyển dụng nhân tài để xử dụng ưu tiên vào việc phát triển kinh tế.43
- Trong Lãnh Vực Học Tập Trữ Tài44
Theo ông thì học ở thực sự thì có chỗ thực dụng, còn học viển vông thì chẳng đi đến đâu.
Một trăm năm về trước, Nguyễn Trường Tộ đã đề cập đến nhiều vấn đề quốc kế dân sinh mà tới nay vẫn còn giá trị. Nếu đem ra thi hành đúng mức thì nước nhà sẽ tiến bộ nhanh chóng.
- Trong Lãnh Vực Xã Hội45
Ông đề cập đến việc thành lập những cô nhi viện, nhà dục anh, những cơ sở giáo hóa côn đồ và thiếu nhi phạm pháp, làm thế nào trừ khử ba tính xấu gia truyền của người Việt là ích kỷ, lười biếng và dị đoan mê tín.
- Trong Lãnh Vực Quốc Phòng46
Bản điều trần ngày 10-4-1871 đề cập đến việc mở trường võ bị. Ông bàn về chiến thuật tốc chiến đem đến thắng lợi mặc dù với tổn thất cao, còn hơn cứ kéo dài cuộc chiến nhưng chẳng đạt được chiến thắng. Ông cũng khuyến cáo nên gởi một phái đoàn xuất ngoại, tìm mua những chiến xa, súng ống tối tân, ngựa tốt, học kỹ thuật chế tạo binh khí, đúc đạn dược, v.v. để mai sau có thể tự túc tực cường.47
- Trong Lãnh Vực Ngoại Giao48
Ông chủ trương giao hòa với Pháp, vì chống nhau với người Pháp thế nào cũng thua và có hại. Còn nếu giao kết với Pháp thì bên ngoài có thể chống lại với cường quyền khác muốn dòm ngó đất nước ta, và bên trong được bình yên mà lo việc cải cách cho nước giàu mạnh lên.
Trần Tiến Thành đề nghị áp dụng những kế hoạch của Nguyễn Trường Tộ đối với Pháp để chờ dịp thuận lợi làm áp lực buộc Pháp trao trả 6 tỉnh miền Nam mà Pháp chiếm đóng bất hợp pháp.49
Ông cũng chủ trương giao thiệp với các cường quốc khác, đặt sứ thần lãnh sự ở các nước ấy để giữ tình giao hiếu và để biết rõ tình thế trong thiên hạ. Do đó họ sẽ có cảm tình và giúp không để nước nào xâm chiếm đất nước ta được.50
43 Thái Văn Kiểm, op. cit., trg 298.
44 Điều Trần 45.
45 Tế Cấp Bát Điều Trần, Điều 27, Tháng 8, 1867.
46 Thiên Hạ Đại Thế Luận, Điều 1; Tế Cấp Bát Điều Trần, Điều 27; Tu Chính Võ Bị, Điều 50.
47 Vào thời kỳ này - thời kỳ chống Pháp xâm lăng - chỉ có Lm. Đặng Đức Tuấn và Nguyễn Trường Tộ đề nghị với
chính quyền những biện pháp khoa học thiết thực để chống lại giặc Pháp. Trái lại, triều đình nhà Nguyễn, Văn Thân
và Cần Vương không có một kế hoạch nào khả dĩ ngăn ngừa xâm lăng, ngay cả Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp và
Nguyễn Tri Phương. Xem:
- Chương Hai Mươi Bảy, số 2 C.
48 Thiên Hạ Đại Thế Sự, Điều 1; Điều 19: Nhượng Bộ Tạm Thời cho Pháp. Hòa Từ 1861. Điều 36: Thành lập bang
giao với nước Anh, Esphana và Nga hầu có thể làm áp lực với Pháp để trao trả những tỉnh bị mất.
49 ĐNTL - ĐIVK: CBTTĐ, 30-11-1870, Tờ 90-94, CRO 2: CB 364.
50 Dương Quảng Hàm, op. cit., trg 332. Bản điều trần thứ 4 (3-9-1866) và bản điều trần thứ 6 (12-3-1868).
- ĐNTL - ĐIVK, Dưới Triều Tự Đức, Tập 32, trg 59. Về mặt quân sự, Lm. Đặng Đức Tuấn đề nghị liên lạc với
nước Anh, hiện có quân đóng tại Singapore, để chận đứng Pháp xâm lăng.
- Trong Lãnh Vực Tông Giáo51
Vấn đề tự do tông giáo được nêu lên trong bản điều trần Giáo Môn Luận viết ngày 11-2 năm Tự Đức 16 (tức 29-3-1863). Ông mạnh dạn chống đối chính sách bắt đạo của Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức là một đường lối man rợ làm từng vạn người vô tội phải thiệt mạng một cách oan uổng do các sắc dụ cấm đạo năm 1833, 1836, 1838, 1848,1851, 1853,1854, 1857,1859,
1860 và 1861. Ông đề nghị áp dụng hình pháp nghiêm ngặt đối với bất cứ ai, Công giáo hay không Công giáo, phản nghịch loạn thường để duy trì công bình và luật lệ trong nước.52
Nhưng triều đình và sĩ phu không chấp thuận đường lối sáng suốt của Nguyễn Trường Tộ. Trái lại họ vẫn tiếp tục dùng vũ lực quyền thế để hiếp đáp những kẻ yếu thế không cùng tín ngưỡng, khiến Nguyễn Trường Tộ phải phản kháng một cách mạnh mẽ để cứu những người đồng đạo của mình:53
“Tôi sau khi từ kinh đô về đến Xã Đoài tỉnh Nghệ An, những điều mắt thấy quả đúng với những gì đã nghe được và còn hơn thế nữa là đàng khác. Cứ theo cái đà này thì sự việc sẽ lan ra mãi chưa biết khi nào mới chấm dứt. Đầu mối của sự việc là do sĩ phu, nhưng cái gốc của nó cũng do những người có quyền lực gây ra nữa. Cho nên tôi cứ nói ra không sợ oán trách, dù sau này vì nói những điều này mà phải chết tôi cũng không quản. Bởi vì đã dùng quyền lực mà sinh sự thì muốn yên việc cũng phải dùng đến quyền lực mới được.
Trước đây nhân chuyện người Tây đột nhiên đến, triều đình chưa rõ vì lý do gì đã tiến hành việc Phân Tháp 54 để tạm thời giải tỏa sự nghi ngờ. Những việc làm của triều đình là do ý muốn yên dân chứ không như việc làm của bọn ngoại gian, lửa đổ thêm dầu, làm điều ác độc
ngoài pháp luật, rắp tâm muốn giết cho hết mới thôi. Hiện nay ở tỉnh hai bên lương giáo lòng đang sôi sục, một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho hết mới thôi, một bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn huống chi là con người.
Nếu bên kia không để cho cùng sinh sống thì bên này cũng không để bó tay chịu trói.
Nhà nào ngõ nào cũng xôn xao bàn tán chuyệỉn đó. Đúng như đạo dụ của Thánh Thượng trước đây có nói: Giáo dân tỉnh Nghệ An có hơn 8 vạn trong đó có nhiều tay không vừa, trừ phi có chiếu chỉ rõ ràng của triều đình mới không dám kháng cự, còn giữa dân với nhau thì như nhau cả, nếu bức bách họ thì làm sao họ chịu yên được.
Ở Phương Tây trước kia đã có lần đại loạn gọi là chiến tranh tông giáo. Đó là cái gương soi cho chúng ta, vả lại hai chữ “lương,”55 “dữu”56 chẳng có quan hệ gì đến sự thế quốc gia cả.
Thế mà khắp cả tỉnh người ta đều luôn mồm lấy hai chữ đó để nhục mạ nhau. Một lời nói mà không chịu trách nhiệm là xách dao đâm chém nhau. Nhưng trong làng xóm người ta còn cậy thế lực hào lý áp chế nhau, còn dựa vào tục lệ mà tích oán thành họa. Lại còn một tệ đoan nữa là trong bình dân có nhiều người quyền quý và những người có thế lực quan trọng liên kết với nhau dễ bề bày đặt khiến mọi người nghe theo. Ngay như trước đây khi triều đình Phân Tháp họ đã làm những điều ác độc phi pháp, khắp nước chưa có đâu như tỉnh Nghệ. Ý họ muốn giết cho hết không sót một ai, như thế họ ăn nuốt mới trôi. Bởi vậy nghe nói có chiếu của vua, họ liền nói:
Triều đình hành sự như trẻ con. Thủ đoạn đó thật quá lắm vậy. Nay sợ giáo dân kiện quan, bắt bồi thường những của cải mà trước kia họ đã lấy càn của dân nên họ nói đủ những điều đe dọa.
Nay thì nói triều đình sắp phá hòa ước sẽ giết chúng bay, mai thì nói chúng tao sắp cùng nhau giết chúng mày.
Triều đình có chiếu lệnh điều hòa lương giáo thì các phủ huyện giữ kín không chịu thông tư ra, giáo dân chỉ nghe phong thanh mà thôi. Như việc lần trước triều đình miễn thuế cho những giáo dân sau khi bị phân tháp trở về, thế mà dân chúng chẳng biết. Vì vậy nhiều làng bị lý dịch vẫn cứ trưng thu đủ số. Tuy có đại ân mà cùng dân chẳng hưởng đựơc gì, việc lớn còn vậy, thì biết việc nhỏ như thế nào?”
Bức thư phản kháng của Nguyễn Trường Tộ không những trình bày tình trạng nghi kỵ giữa giáo và lương, mà còn đề cập đến sự bất lực của triều đình để xóa bỏ nghi kỵ này.57
51 Trương Bá Cần, op. cit., trg 115. Điều 2 về tự do tôn giáo (Giáo Môn Luận).
52 Dương Kinh Quốc, Việt Nam (Hà Nội, 1981), Tập I, trg 51.
- Trương Bá Cần, op. cit., trg 115-119.
53 Công Giáo và Dân Tộc, số 650, ngày 28-2-1988. Thư viết ngày 22 tháng 4 năm Tự Đức XIX tức 4-6-1866 gởi
Trần Tiến Thành và Phan Thanh Giản.
54 Supra, Phân Tháp. Xem Chương Hai Mươi Ba, số II, 4.
55 Lương dân chỉ người lương thiện, tức người ngoài Công giáo.
56 Dữu có nghĩa là dại. Dữu dân chỉ người ngu dại, xấu, tức người Công giáo.
B. Những Thực Hiện Cụ Thể58
Nguyễn Trường Tộ là một con người không những chịu khó học hỏi mà còn thực tế, đem sự học hỏi của mình ra áp dụng vào đời sống để giúp đỡ xã hội.
Trong lãnh vực kiến trúc, ngay tại Sài Gòn trên đại lộ Cường Để59 có dòng nữ tu Saint Paul, thường gọi là Nhà Trắng, là một công trình kiến trúc vĩ đại do Nguyễn Trường Tộ xây cất năm 1862 sau khi ông đi Rôma và Pháp về. Cũng vào thời kỳ này tại giáo xứ Xã Đoài thuộc địa phận Vinh, ông xây tòa nhà hình chữ Thập với kiến trúc cổ điển Tây phương. Tòa nhà bao gồm trụ sở Giám mục và chủng viện 3 tầng lầu.
Nhằm lúc về quê nhà tại thôn Xuân Mỹ, ông thấy dân tình nghèo đói, sống trên mảnh đất chật hẹp. Ông bèn tìm một khu đất rộng lớn để di dân Xuân Mỹ tới đó, tạo thành một khu trù mật thời bấy giờ.
Công trình vĩ đại nhất của ông là việc đào Kinh Sắt nối liền Cửa Lò với Vinh. Theo lời kêu gọi của Tổng Đốc An Tịnh Hoàng Tá Viêm năm 1866, ông điều hành việc khai kênh sau khi quan Tổng đốc chịu thua vì gặp phải nhiều lớp đá cứng rắn xung quanh chân núi. Nguyễn
Trường Tộ biết không thể phá nổ lớp đá ấy, nên quyết định đào con kinh vòng quanh chân núi.
Sau mấy tháng đốc thúc, ông hoàn thành công trình mà trước kia Cao Biền cũng như Hồ Quí Ly đã đều bỏ dở.
Tháng 9-1866 Nguyễn Trường Tộ theo lệnh Tự Đức hướng dẫn một phái đoàn sang Pháp để mua các tài liệu liên hệ tới khoa học, địa chất, hải quan, phương pháp biến chế quân nhu, vũ khí, cùng tuyển mộ chuyên viên, kỹ sư, giáo sư về nước mở trường dạy học. Phái đoàn tới Pháp chưa được bao lâu thì được lệnh gọi về nước vì tình thế nước nhà rối ren.
Có lần Nguyễn Trường Tộ đảm nhận trách nhiệm thông dịch viên giữa triều đình Huế và phái bộ Charner, nhưng vì công việc quá tế nhị mà cũng chẳng được bên nào tin cậy, ông bèn rút lui về quê quán. Năm 1868 ông được chỉ định công cán sang Pháp lần thứ hai và một lần nữa vào cuối năm 1870, nhưng lần này ông không đi được vì bệnh tình trầm trọng. Năm 1871 Nguyễn Trường Tộ lìa trần sau một năm nằm tê liệt trên giường bệnh.60 Thái Văn Kiểm phê bình Nguyễn
Trường Tộ như sau:
“Cái chết của Nguyễn Trường Tộ giữa lúc quốc sự đa đoan đã tạo nên một khoảng trống lớn trong giới sĩ phu đương thời. Nhưng tiếc thay vua quan đời đó chẳng mấy ai để ý tới. Tuy nhiên mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.”
57 So sánh với bản điều trần Minh Đạo Bình Tây Sách của Lm Đặng Đức Tuấn ở phần I, 2, D.
58 Trương Bá Cần, op. cit., trg 89-95.
59 Cường Để nay (2000) là đường Tôn Đức Thắng.
60 Thái Văn Kiểm, Phương Đông, trg 300.
- Đào Trinh Nhất, Phan Chu Trinh (Sài Gòn, 1950), trg 29 ghi rằng khi đi Âu châu về, Nguyễn Trường Tộ dâng lên một số điều trần những phương lược cải cách, và xin nhà vua làm ngay theo gương nước Nhật; nếu không thì đất nước sẽ mất. Tự Đức họp đình thần để bàn, đình thần cho là nói càn, không chịu theo. Nguyễn Trường Tộ buồn đến nỗi uất ức mà chết.
Nguyễn Trường Tộ để lại cho hậu thế một bài học đáng được suy gẫm và lưu truyền. Rất tiếc cho người sinh bất phùng thời đã gào thét hết hơi giữa bãi sa mạc mênh mông đúng như lời than của một thi sĩ phương Tây: “Tôi đã đến quá sớm trong một thế giới quá cũ.”61 Trong một chuyến Tây Du, ông đã gặp Ito Hirobumi, một người Nhật trên đường tìm kiếm phương cách đổi mới nước nhà và đã thành công rực rỡ trong cuộc canh tân nước Nhật Bản. Còn Việt Nam thì trái lại sắp sửa chìm ngập trong máu lửa chiến tranh. Rất tiếc ông phải chịu số phận hẩm hiu vì đã lỡ sinh ra giữa đám người mù quáng lạc hậu mà kiêu căng, chẳng khác nào:
“Phụng Hoàng đậu chốn cheo leo
Sa chân lỡ bước phải theo đàn gà...”
Đối với xã hội đương thời, Nguyễn Trường Tộ là một lãnh tụ chủ nghĩa xét lại. Ông không những là một kẻ canh tân mà còn là một chí sĩ chủ trương một cuộc cách mạng toàn diện
nhằm biến cải hoàn toàn xã hội Việt Nam.
Trước khi vĩnh biệt cõi trần, Nguyễn Trường Tộ đã để lại một sự nghiệp to lớn. Tinh thần dân tộc của ông được đề cập đến rất nhiều trong vùng quốc gia kiểm soát từ 1946-1975.62 Tạp chí Văn Hóa Á Châu đã cho dịch lại những bản văn bằng chữ Hán của Nguyễn Trường Tộ và đăng trên tạp chí Nam Phong từ 1925 trở đi. Tờ báo Tinh VIệt Văn Đàn có công cổ vũ cho tinh thần quốc gia lúc nói về “Người yêu nước sáng suốt” Nguyễn Trường Tộ. Quả thật ông là sự hy sinh hiến dâng cho Tổ Quốc, tấm gương yêu nước của ông phải được treo cao cho toàn thể soi chung.63
III. TRƯƠNG VĨNH KÝ
Cùng với Đặng Đức Tuấn và Nguyễn Trường Tộ, Petrus Trương Vĩnh Ký đã viết nhiều cho cuộc canh tân xứ sở. Nhưng thay vì dùng bút lông như hai vị trước, ông đã dùng ngòi bút sắt, viết tiếng quốc ngữ hoặc tiếng Pháp để biểu lộ tư tưởng canh tân của mình.
Giám mục Gauthier trong thư đề ngày 1-11-1871 viết là người giáo hữu Việt Nam mà tôi đem theo năm 1867 và người ta gọi là kiến trúc sư đã là nạn nhân của một âm mưu đầu độc.
- Trương Bá Cần, op. cit., trg 447 viết lúc Nguyễn Trường Tộ chết đã thổ ra một cục máu lớn, hưởng dương 43 tuổi.
Năm 1925, Khải Định truy phong Nguyễn Trường Tộ là Hàm Trực Học Sĩ.
61 “Je suis venu trop tôt dans un monde trop vieux.”
62 Trong Di Thảo số 27 ngày 15-11-1867 Nguyễn Trường Tộ cho biết: hiện có một hoàng tử và 35 người cùng đến
Paris và đã thiết lập ở đó một đại học xá. Hoàng tử ấy có thể là Ito Hirobumi.
63 Thái Văn Kiểm, Phương Đông, trg 300 và tiếp.
- Ngày 22-11-1971 nhằm kỷ niệm 100 năm ngày từ trần của ông, Tinh Việt Văn Đoàn tổ chức Bách Chu Niên
Nguyễn Trường Tộ để ra mắt Ủy Ban Quốc Gia Nguyễõn Trường Tộ với mục đích dựng tượng đài kỷ niệm Nguyễn
Trường Tộ; sưu tầm, nghiên cứu, phiên dịch và phổ biến các văn bản của ông; lập giải thưởng Nguyễn Trường Tộ
để tặng thưởng những ai bằng tác phẩm của mình đã đóng góp vào công cuộc phát triển Quốc Gia Việt Nam.
Trong lúc đó ở Bắc Việt từ 1954 đến 1975 rất ít nói đến Nguyễn Trường Tộ ngoại trừ một cuốn sách của Chương
Thâu, Nguyễn Trường Tộ và Những Đề Nghị Cải Cách Của Ông, xuất bản tại Hà Nội năm 1961.
- Trương Bá Cần, op. cit., trg 11-13 đã xuyên tạc mục đích thuần túy Văn Hóa của tạp chí Văn Hóa Á Châu (Saigon)
lúc tạp chí này đã dịch và đăng lại những bản văn chương chữ Hán mà Nguyễn Trường Tộ đã đăng trên Nam Phong
trước dây. Đồng thời Trương Bá Cần cũng nói lên rằng con người Nguyễn Trường Tộ là con người Việt Nam với dòng máu anh hùng được truyền từ Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh. Đồng ý là Nguyễn Trường Tộ có cùng dòng máu với qúy vị anh hùng ấy nhưng chỉ thắc mắc một điều là không lẽ một con người chính trực ngoan đạo và yêu nước như Nguyễn Trường Tộ lại là con người có cùng dòng máu với Hồ Chí Minh sao.
1. Tiểu Sử
Trương Vĩnh Ký sinh tại Cái Mơn, Vĩnh Long năm 1837, lúc mới 5 tuổi, cậu học chữ nho và sau đó học chữ quốc ngữ với linh mục Nam, tục là “Cụ Tám.” Sau lúc Cụ Tám mất mẹ trao cho một thừa sai Pháp, Cố Long64, cha sở Cái Mơn. Ngay từ buổi đầu, nhận thấy sự thông minh xuất chúng của Ký, cố Long không những dạy quốc ngữ mà còn dạy thêm chữ La Tinh.
Trong nước lúc bấy giờ dưới thời Tự Đức, những người Gia Tô giáo bị tàn sát khắp nơi, từ Bắc chí Nam. Do đó cố Long với năm ba học trò tùy tùng, trong đó có Trương Vĩnh Ký, tìm kế thoát thân: có khi phải giả dạng làm con buôn, có lúc mặc y phục đám cưới, rồi nào dù, nào võng, nào nghi lễ, cứ thế mà qua hết rừng nọ tới sông kia. Hễ ở yên được một chỗ trong ít lâu là cố Long lại đem chữ Latinh ra dạy. Thế rồi Trương Vĩnh Ký thông thạo được chữ Latinh và vài ngoại ngữ khác. Năm 11 tuổi cố Long gởi Ký vào trường Pinhalu ở Hà Tiên. Tại đây Ký có dịp tiếp xúc với học sinh các nước, nên đã được bạn bè dạy thêm cho tiếng Trung Quốc, Miến Điện,
Lào, Cambodia. Vì là học sinh xuất sắc nên Ký được gởi sang chủng viện Penang ở Malaysia.65
Sau cuộc hành trình vất vả gian nan, Ký tới chủng viện năm 1858.66
Tại Pénang ông học thêm tiếng Hy Lạp, India và Anh. Năm 21 tuổi ông trở về quê hương để thọ tang mẹ67 và quyết định không trở lại Pénang vì ông không có chí hướng làm linh mục.
Ông muốn trở thành một giáo dân bình thường nhưng chân thật. Năm 1862 Pháp chiếm Gia Định, ông Jauréguiberry chỉ huy hải quân Pháp, nhờ Giám mục Lefèbvre kiếm cho một người
thông ngôn thạo hai thứ tiếng Pháp-Việt để tiện việc điều đình giữa hai nước. Từ một viên thông ngôn, ông trở nên một nhà ngoại giao mà sứ mạng là làm sao cho người Pháp hiểu người bản xứ,
và cho các Nho sĩ có thể nhìn vào sự thực, vào sự yếu hèn của nước nhà trước sự văn minh của người để canh tân xứ sở.
Mặc dầu trái với ý nguyện, tình huống lúc bấy giờ đẩy đưa ông vào chính trị, một con đường đầy cạm bẫy, đầy trở ngại và làm cho ông chán ngán. Vì là một thông dịch viên tài ba, ông được nhiều người chú ý. Dần dà ông trở nên trung gian giữa Việt Nam và Pháp. Thời buổi lúc bấy giờ, một người vừa am hiểu sâu xa văn hóa Á Đông, vừa tường tận nếp sống của người Âu thì thật không ai hơn ông. Qua sự tiếp xúc với một người trí thức như ông, người Pháp biểu lộ thái độ kính trọng ông cách riêng, và qua ông, họ cũng kính trọng dân tộc Việt Nam nói chung.
Năm 1863, ông theo phái đoàn của Phan Thanh Giản sang Pháp và Espanha68 và được yết kiến Pháp hoàng Napoléon III. Tại Pháp ngoại giao đoàn rất khâm phục về những hiểu biết rộng rãi, cũng như sự thông thạo ngoại ngữ của ông. Tại Paris, ông được các câu lạc bộ văn hóa đón tiếp như một danh nhân. Những người nổi tiếng trong giới nhà văn như Victor Hugo, Renan, Dury trở nên bạn hữu của ông, và ông được đề cử làm thành viên của hội Dân Tộc học.69
64 Cố Long là thừa sai Emile Boullevaux, Mep. Cha sinh năm 1823, đến Nam Kỳ năm 1848 và mất năm 1913. Xem:
- Launay, Memorial de la Société des MEP (Paris, 1916), trg 78.
65 Đoàn Bích, Famous Men of Việt Nam ghi trường này là Jesuits’ Far East Catholic Mission. Đúng hơn là trường của các Thừa sai Truyền Giáo Paris.
66 Lm. Đặng Đức Tuấn làm giáo sư Hán văn tại Penang từ 1841 đến 1851; còn Trương Vĩnh Ký học ở đây từ 1852
đến 1858, nên Pétrus Ký không có học chữ Hán với Lm. Tuấn. Hai người hình như không biết nhau cho đến lúc ký kết hòa ước 1862.
67 Đoàn Bích, op. cit., trg 15.
68 Supra. Xem Chương Hai Mươi Bốn, số IV, 2.
69 Đoàn Bích, op. cit., trg 16.
Lúc phái bộ Việt Nam về nước thì ông ghé thăm Rôma và được yết kiến Giáo Tông Piô IX. Năm 1866 ông được chỉ định làm Giám đốc trường Sư Phạm, và Giáo sư trường Hậu Bổ.70
Sau một thời gian ngắn làm việc cho toàn quyền Paul Bert, vua Đồng Khánh bổ nhiệm ông vào Viện Cơ Mật của triều đình Huế. Trong chức vị này, ông luôn gặp trở ngại và sự ghen tuông của các quan đại thần trong triều, nhưng nhờ kinh nghiệm bản thân, ông thành công trong sứ mạng của mình, và càng khiến cho những kẻ thù địch thêm bực tức. Chính ở đây đụng đầu một lần nữa hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ, một bên là triều đình Huế với những quan đại thần
được hun đúc trong một lối giáo dục Nho Giáo đóng kín cũ rích, một bên là con người trí thức Công giáo với những tư tưởng phóng khoáng cởi mở.
Không may, sau lúc toàn quyền Pháp Paul Bert mất, Pétrus Ký mất tất cả ảnh hưởng và quyền hành về phía Việt Nam cũng như về phía Pháp. Cả hai bên đều nghi kỵ ông, và từ đấy ông xin nghỉ hưu.
Cuộc đời chính trị của ông chấm dứt ở đây. Có người gán cho ông là việt gian.71 Thật ra trong thâm tâm, lúc ông bắt tay với Pháp là có dụng ý cải thiện sự liên lạc giữa triều đình Huế và chính phủ Pháp, hầu tránh một cuộc chiến tranh đẫm máu mà ông biết chắc sự thất bại sẽ thuộc về quê hương ông. Bằng ngoại giao ông chủ mưu việc bảo tồn danh dự cho triều đình Huế, cho Việt Nam và đồng thời muốn nhờ sự văn minh của Tây phương, mà cụ thể lúc bấy giờ là văn
minh của người Pháp, để gây cuộc phục hưng cho tổ quốc, để giải phóng người mình về phương diện tinh thần vẫn còn bị giam hãm trong một bầu khí xã hội, chính trị và văn hoá quá lạc hậu.
Ông là một trong những người đầu tiên đứng ra bắt tay với người Pháp, để rồi cùng ngang hàng với họ trên con đường tiến bộ chứ không phải để làm nô lệ. Nhiều người có cảm
tưởng rằng Pétrus Ký là một tín đồ Việt Nam theo đạo Gia Tô với ý nghĩ và hành động gần với ngưới Pháp hơn là người Việt Nam. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ lưỡng đời sống gia đình, chính trị,
văn hóa của ông thì phải chấp nhận rằng ông không những là một tín đồ Công giáo mà còn là một tín đồ Nho Giáo.
Thật vậy, trong gia đình, ông thường tụ tập con cháu, đem những sách cổ ra giảng để cho biết thế nào là hiếu, nghĩa, lễ, trung, tín. Ông soạn hoặc dịch các tác phẩm như Kiếp Người, Nữ Tặc, Mẹ Dạy Con Gái Làm Dâu, Huấn Nữ, Gia Huấn, Bất Cương Thanh Bì, Thái ca, Minh Tâm Bửu Giám, v.v. để làm phương tiện đúc nắn hậu bối theo khuôn mẫu Nho giáo.
Ông được người Pháp kính nể, và được lĩnh Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp. Thế nhưng lúc bằng hữu viết thư yêu cầu ông nhập tịch Pháp, ông vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ
quần áo Việt Nam, và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.72
Một số người đã phê bình rằng trên phương diện chính trị, nếu ông Trương Vĩnh Ký có những lỗi lầm đi nữa, thì sự nghiệp văn hóa mênh mông vĩ đại của ông đã che lấp tất cả những lỗi lầm đó, như nước thủy triều dâng cao, ngập tràn rồi san bằng những mô cát trên bờ biển và không để lại dấu vết.
Sau lúc rời bỏ cuộc đời chính trị, ông đem tất cả trí tuệ, sức khỏe và thời giờ vào công việc văn hóa. Cũng như vận mệnh chung của những người tận tụy cho lý tưởng, ông mất trong cảnh nghèo nàn liêm chính ngày 1-9-1898.
2. Sự Nghiệp Văn Hóa
70 Ibid. In 1866 he was appointed director of the “Collège des Interprètes” in Saigon and six years later became the
director of Việtnam’s first normal school.
71 Ibid, trg 13.
72 Lê Thanh, Trương Vĩnh Ký, trg 26. On m’écrit depuis trois couriers de suite en m’engageant à me faire
naturaliser... J’y refuse carrément et je ne change pas d’opinion. (Thư gởi cho Lm. Sietert ngày 15-9-1888.)
Nếu các thừa sai trước Alexandre de Rhodes đã có công sáng chế ra chữ quốc ngữ, thì Trương Vĩnh Ký, qua sự nghiệp văn chương của ông, đã mở đường cho chữ quốc ngữ được phổ biến sâu rộng trong quần chúng.
Trước Petrus Ký, chữ quốc ngữ chỉ dùng trong giới Công giáo, chỉ có người Công giáo mới dùng chữ quốc ngữ để giảng dạy, nhất là dạy giáo lý. Truớc ông cũng đã có những tác phẩm bằng chữ quốc ngữ, về những đề tài ngoài tông giáo, nhưng thật hiếm hoi như Truyện
Nước Annam Đàng Ngoài Chí Đàng Trão của Philipphê Bỉnh. Đây là tác phẩm không tông giáo trong số 26 tác phẩm của linh mục Philliphê Bỉnh S.J.
Để phổ biến chữ quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký dùng hai phương pháp là dịch sách Trung Hoa, chữ Nôm, chữ Pháp ra tiếng quốc ngữ, và sáng tác những tác phẩm bằng tiếng quốc ngữ.73
Đọc qua những tác phẩm sáng tác hay phiên dịch của ông, độc giả sẽ có những nhận xét sâu xa về Việt Nam. Điển hình là quyển Lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp. Qua tiếng Pháp, người Pháp và một số học thức gia trên thế giới biết được rằng nếu nước Pháp hãnh diện với một cô gái dũng cảm như Jeanne d’Arc, thì Việt Nam đã có Trưng Trắc, Trưng Nhị đứng lên chống quân Hán xâm lược; nếu Châu Âu đã quỳ gối trước lực lượng vũ bão của Mông Cổ do Attila chỉ huy,
thì ở Việt Nam, Trần Quốc Tuấn đã đánh tan quân Mông Cổ. Ở Pháp có Napoléon thì Việt Nam có Quang Trung, sống cùng một thời gian nhưng ở hai địa bàn khác nhau. Chỉ qua bấy nhiêu sự kiện, người Pháp cũng đủ hiểu khí phách anh hùng dân tộc của người Việt là thà chết chứ không làm nô lệ ngoại bang.
Ông viết sách văn phạm Việt Nam bằng tiếng Pháp. Với mục đích gì mà ông biên soạn sách dạy thực hành tiếng Việt cùng từ điển Pháp-Việt? Chẳng qua là để qua tiếng Pháp, người Pháp và dân trí thức trên thế giới hiểu được nền văn hóa Việt Nam phong phú đến mức nào. Họ
sẽ đọc được Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên mà ông đã có công dịch ra tiếng Pháp. Sở dĩ Kim Vân Kiều có thể trở nên Kinh thánh của người Việt Nam như Lê Thành Khôi viết,74 là nhờ công của Trương Vĩnh Ký. Đằng khác người Pháp và người học tiếng Việt75 có thể hiểu và thưởng thức Kiều cũng nhờ Trương Vĩnh Ký đã phiên dịch ra quốc ngữ. Làm cho người đọc hiểu Kiều,
thưởng thức Kiều, tức là thưởng thức những cái gì tinh hoa nhất trong văn chương thi phú Việt Nam. Công trình ấy thuộc về Trương Vĩnh Ký.
73 Sách Trung Hoa và chữ Nôm dịch ra tiếng quốc ngữ:
- Gia Huấn Ca, Trần Hy Tăng
- Kim Vân Kiều, Nguyễn Du
- Đại Nam Sử Ký Diễn Ca, Lê Ngô Cát
- Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi
- Lục Súc Tranh Công
- Phan Trần Truyện
- Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu
- Đại Học
- Trung Dung
- Minh Tâm Bửu Giám
Sách sáng tác bằng chữ quốc ngữ:
- Kiếp Phong Trần, Sài Gòn, 1885
- Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất Hợi, 1881
- Phép Lịch Sự Annam, Sài Gòn, 1883
- Sách Dạy Chữ Quốc Ngữ
- Sách Dạy Chữ Nho
- Huấn Nữ Ca
- Thơ Mẹ Dạy Con
- Mẹo Luật Học Tiếng Phú Lang Sa
- Chuyện Đời Xưa, Sài Gòn, 1886
- Bất Cượng Chớ Cượng Làm Chi, Sài Gòn, 1882
Sách viết bằng tiếng Pháp:
- Tóm Tắt Văn Phạm Chữ Quốc Ngữ, Sài Gòn, 1883
- Lớp Quốc Ngữ Thực Hành
- Imprimerie Impériale, 1868, 69 trang
- Lớp Địa Lý Xứ Nam Kỳ , 1875
- Từ Điển Pháp Việt, 1884
- Lịch Sử Việt Nam, 1875
74 Lê Thành Khôi, op. cit., trg 346: “Le Kim van Kieu est devenu la bible du peuple Vietnamien, Il n’est personne.
qui n’en connaisse quelques strophes et n’en feuillette les pages avec ferveur pour y retrouver un écho de ses joies et
de ses peines comme pour essayer d’y deviner l’énigme de sa destinée...”
Nếu người nước Pháp thích đọc Andromaque của Racine, người nước Anh thích đọc Hamlet của Shakespeare thì người Việt thích đọc truyện Kiều của Nguyễn Du, sách Việt bằng tiếng quốc ngữ.
Nếu Trương Vĩnh Ký không phiên dịch truyện Kiều ra chữ quốc ngữ, thì thử hỏi sẽ có bao nhiêu người Việt có thể đọc được Kiều bằng chữ Nôm? Ông đã hé mở vườn hoa văn chương Việt Nam cho người Việt và người ngoại quốc thưởng thức.
Ông còn muốn độc giả thấm nhuần những tư tưởng Nho giáo bằng cách dịch ra quốc văn toàn bộ Tứ Thư, Đại Học, Trung Dung, và Minh Tâm Bửu Giám. Bộ Tứ Thư có một căn bản về triết học và luân lý của Đông phương. Dịch được bộ sách này, Trương Vĩnh Ký có một ảnh hưởng lớn trong nền giáo dục gia đình cũng như trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ.76
Dương Quảng Hàm trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu đã không đánh giá đúng mức vị trí của Pétrus Ký trong nền văn học nước nhà.77 Nếu Đặng Đức Tuấn và Nguyễn Trường Tộ nổi tiếng về những tư tưởng chính trị xã hội, giáo dục, quân sự qua những bản điều trần, thì Trương Vĩnh Ký là một con người vĩ đại trong lãnh vực văn chương và văn hóa qua những bộ sách mà ông dịch như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, Gia Huấn Ca và bộ Tứ Thư.78 Đào Duy Anh viết:
“Người đầu tiên có công khiến văn học ta thành sinh diện mới ấy là Trương Vĩnh Ký, một nhà học giả trứ danh ở Việt Nam. Ngay từ khi Việt Nam mới thành thuộc địa ông đã dùng chữ quốc ngữ để chuyển những văn Nôm,79 rồi lại dùng Việt Ngữ để phiên dịch sách Tàu,80 sách Tây,81 và sáng tác các loại sách bằng một loại văn rất giản dị.”
Năm 1867, ông Kerguda đang làm thống đốc Nam Kỳ mời Trương Vĩnh Ký ra làm quan.
Ông từ chối, nhưng xin thành lập một tờ tuần báo quốc ngữ Gia Định Báo.82 Trương Vĩnh Ký là ông tổ báo chí quốc ngữ ở nước ta. Ông điều khiển tờ báo năm 1869 với sự cộng tác của Paulus Huỳnh Tịnh Của,83 Trương Minh Ký và Tôn Thọ Tường. Tờ Tuần báo Gia Định trở nên phong phú với những bài khảo cứu, những bài sưu tầm về tục ngữ, ca dao, thi ca và chuyện cổ tích.
Đặt vào tay Trương Vĩnh Ký một tờ báo như Gia Định Báo, là trao cho ông một phương tiện mà tự trong tâm can, ông coi như là một khí giới sắc bén tối tân, để chiếm lại cho quê hương về mặt văn hóa những gì mà triều thần lạc hậu đã làm mất về chính trị ngoại giao và lãnh thổ.
75 Hiện giờ (1988) tiếng Việt là tiếng đứng thứ 7 về phương diện được thông dụng. Sau tiếng Anh, Pháp, Espanha,
Nga, Trung Hoa, Ả rập là Việt Nam. Sở dĩ được như vậy là vì sau 30-4-1975 người Việt di tản đến hầu hết các nước trên thế giới tự do, cần cù sinh sống chịu khó học hành và ra sách báo bằng tiếng Việt. Phần khác, chính phủ Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lại “xuất khẩu lao động” đến các nước Xã Hội Chủ Nghĩa để trả nợ. Do đó người Việt Nam có
mặt khắp nơi và tiếng Việt trở nên phổ biến.
76 Người ta tiếc rằng Pétrus Ký chưa có thời giờ để dịch bộ Thánh Kinh ra tiếng Việt. Việc ấy phải chờ đến Lm. Schlicklin năm 1913 và Lm. Nguyễn Thế Thuấn năm 1977.77
Dương Quảng Hàm, op. cit., trg 330 dành nguyên Chương 14 viết về Nguyễn Trường Tộ, cònTrương Vĩnh Ký chỉ được cước chú bằng chữ nhỏ ở trang 395.
78 Dương Quảng Hàm, op. cit., trg 395 không đề cập đến việc Trương Vĩnh Ký dịch Kim Vân Kiều, Tứ Thư, v.v. là
những tác phẩm có giá trị.
79 Kim Vân Kiều, Lục Văn Tiên, Nam Sử Diễn Ca, Phan Trần Truyện.
80 Tứ Thư.
81 Manuel des Écoles Primaires, Petit DictionnaireFrancais Annamite.
82 Nguyễn Việt Chước (Hồng Hà), Lược Sử Báo Chí Việt Nam (Sài Gòn, 1974), trg 30.
83 Tác giả của Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (1895-1896).Cùng với Đặng Đức Tuấn, Nguyễn Trườụng Tộ và một số người Công giáo khác, TrươngVĩnh Ký đã cố hướng dẫn triều đình Huế về một chính sách cởi mở để cứu nước. Nhưng sĩ phu Văn Thân và Cần Vương la ó lên án rằng: ”Triều đình mở cửa cho kẻ cướp vào.”
Một sự đấu tranh quyết liệt giữa hai luồng tư tưởng tiến bộ và lạc hậu đã diễn ra trên sân khấu Việt Nam vào thế kỷ 19. Đại diện cho tư tưởng tiến bộ là linh mục Đặng Đức Tuấn, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký và một loạt người Công giáo đi du học nước ngoài.
Đại diện cho tư tưởng lạc hậu là triều đình Huế, sĩ phu Văn Thân và Cần Vương hiếu chiến. Cuộc đấu tranh tạm kết thúc bằng sự thắng thế của hạng người lạc hậu, dùng sức mạnh của gươm đao để cướp bóc, chém giết người Công giáo và xô đẩy đất nước đến chỗ sụp đổ và làm nô lệ cho ngoại bang Pháp gần 100 năm.
84 Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ(TPHCM, 1988), Dụ Tài Kê Cấp Bẩm Từ, Di thảo số 5, trg 69.
85 Sau đây là một số sách về Trương Vĩnh Ký:
- Jean Bouchot, Petrus Trương Vĩnh Ký, Erudit Cochinchinois (Sài Gòn, 1925).
- Nguyễn Văn Trấn, Trương Vĩnh Ký, Con Người Và Sự Thật (NXB Khoa Học Xã Hội, TPHCM, 1993).
- Nguyễn Văn Trung, Trương Vĩnh Ký, Nhà Văn Hóa (NXB The Writers Asso-ciation).
- Bằng Giang, Sương Mù Trên Tác Phẩm Trương Vĩnh Ký (NXB Văn Học). |
|