|
3. ĐỨC TIN VÀ CHỨNG NGHIỆM
-------------Toàn bộ vấn đề đặt ra ở đây là sự dung hòa. Làm sao người ta có thể dung hòa được giữa chứng nghiệm về Thiên Chúa và đức tin, khi đức tin vốn được định nghĩa là sự gắn bó trong đêm tối với điều mình không trông thấy và chỉ biết cậy dựa vào Lời của Thiên Chúa mà thôi. Có thể nào vừa phó thác cho Thiên Chúa như nhảy tòm xuống nước, lại vừa cảm thấy an tâm như hai chân đứng vững trên mặt đất hay không?
Tương phản? -------------Đức tin và chứng nghiệm không phải là những thực tế tương phản sao? Có thể hòa hợp trong lòng mình giữa đêm tối của đức tin với ánh sáng của những vì sao không?
-------------Thoạt nhìn, ta thấy đức tin và chứng nghiệm có vẻ như loại trừ nhau. Theo định nghĩa, đức tin là sự gắn bó với Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và mời gọi chúng ta đón nhận Lời Ngài là chân lý đem lại sự sống, vì Lời ấy đáng tin và vì chính mầu nhiệm bao trùm Lời ấy. Làm sao ta có thể xé bỏ bức màn che Đền-thờ và tiến vào cung thánh mà không phạm đến chốn linh thiêng?
-------------Chẳng phải Kinh Thánh đã dạy chúng ta rằng «người công chính sống bởi đức Tin» và Đức Giêsu đã công bố «phúc cho ai không thấy mà tin» sao? Vả lại, toàn bộ truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội kêu gọi chúng ta đừng lầm lẫn giữa đức tin đích thực và nhận thức chúng ta có về đức tin. Tin bằng một đức tin thực sự là một chuyện, còn cảm thấy có tâm tình đức tin lại là chuyện khác. «Tôi tin! nhưng xin đến cứu giúp lòng tin còn ít ỏi của tôi!» (Mc 9,24). Tiếng kêu than này của người cha xin Đức Giêsu chữa bệnh cho con ông nói lên một thái độ không phải hiếm thấy nơi các môn đệ. Chúng ta đựng báu vật trong những bình dễ vỡ. Nếu không nói là muốn lấy kinh nghiệm để thay thế đức tin, - điều mà không ai chủ trương-, thì ít nhất cũng muốn làm suy yếu đức tin khi cố tìm một điểm tựa bên ngoài lấy cớ là để củng cố đức tin ấy, làm như thế không phải là có thể hủy hoại đức tin Kitô giáo hay sao?
Chủ quan?
-------------Hơn nữa, cứ cho rằng đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa tương hợp nhau, thì như thế không phải là lẫn lộn tính khách quan nhất thiết của nhận thức sự vật với đức tin thuộc chủ thể tính của lương tâm hay sao? và như thế không phải là quên đi ý muốn cá nhân dấn thân tin tưởng đạo lý của đức tin, tiếp nhận các chân lý do Thiên Chúa mạc khải và Giáo Hội bảo đảm hay sao?
-------------Về điểm cuối này, chúng ta cần giải đáp ngay tình trạng hàm hồ của vấn đề nêu lên.. Đừng bao giờ quên rằng từ bản chất, đức tin là sự gắn bó, không phải với toàn bộ các tín điều, mà với chính Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải mình. Đức tin chính là sự gặp gỡ sống động với vị Thiên Chúa hằng sống; nó được diễn tả trong lòng Giáo Hội, ngay bên trong một chứng nghiệm. Tín lý là sự diễn tả hoặc định nghĩa chung chứng nghiệm về Thiên Chúa đã được các Tông Đồ và cộng đoàn Kitô hữu sống và truyền đến chúng ta. Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, ngài nói với chúng ta rằng chính ngài và các Tông Đồ khác xác nhận rằng: «Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng» (1Ga 1,1-2).
-------------Chứng nghiệm về Đức Giêsu nhất thiết phải có trước việc xác định chứng nghiệm ấy. Thánh Tôma Aquinô, một nhà thần học không hề bị nghi ngờ là chống lại lý trí, lập lại rằng đối tượng của đức tin không phải là những phát biểu lý thuyết về Thiên Chúa mà là chính Thiên Chúa, được nhận biết và yêu mến trong một mối tương quan thân thiết.
-------------Tín lý rất quan trọng vì nhiều lý do; mà một trong những lý do là vì nó được sử dụng như một bảo đảm khách quan đối với cộng đồng Kitô giáo để xác định sự chân thực của mọi chứng nghiệm cá nhân; chứng nghiệm này không bao giờ được mâu thuẫn với tín lý. Nhưng tín lý vốn để nói đến các chân lý về Đức Kitô, hẳn nhiên nó phải bắt nguồn từ một chứng nghiệm của một cuộc gặp gỡ. Về các chân lý liên quan đến Chúa Thánh Thần cũng như thế. Kitô hữu thời Giáo Hội nguyên thủy trước hết đã sống chứng nghiệm về Thánh Thần – và chứng nghiệm hết sức là thân thiết !– trước khi thiết định thành tín điều về Chúa Thánh Thần mãi tới ba thế kỷ về sau. Đối với họ, đón nhận Thánh Thần và chứng nghiệm Ngài hoàn toàn đồng nghĩa.
Đi quá trớn
-------------Chiều kích chứng nghiệm của Kitô giáo trong Tân Ước đã bị đẩy đến cực đoan trong một vài thuyết về sự thánh hóa; các lý thuyết nầy đi quá trớn khi đề cập đến vai trò của chứng nghiệm. Những người theo phái Giăng-sen16 cố tìm chứng nghiệm về tiền định. Những người theo thuyết tĩnh tại17 tìm cách chứng nghiệm sự thụ động hoàn toàn về mặt thiêng liêng. Những người theo trào lưu tân-thời18 thì muốn xác định yếu tính của Kitô giáo nằm trong những chứng nghiệm đời sống hơn là nằm trong Kinh Tin Kính. Trong Tin Lành giáo, Schleiermacher cũng cổ suý một thứ tôn giáo mang tính tình cảm lãng mạn, còn William James thì biến chứng nghiệm tôn giáo thành một thứ thẩm quyền nội tâm tự tại - tự túc.
Vì muốn đề phòng những quá đáng này nên huấn quyền Giáo Hội đã nhấn mạnh đến khía cạnh khách quan của tôn giáo, về mặt lý thuyết cũng như mặt bí tích.
-------------Tuy nhiên, việc đề phòng những lạm dụng không thể được hiểu là coi nhẹ ý nghĩa và vai trò của chứng nghiệm tôn giáo trong một Kitô giáo chân thực. Nhất là vì tôn giáo này ngỏ lời với con người toàn diện vốn không phải thuần tinh thần, cũng không phải là linh hồn không có thể xác đi kèm, mà là một hữu thể toàn vẹn đang thấy, đang cảm, đang chiêm ngưỡng và hành động.
-------------Vả lại, việc đưa chứng nghiệm vào đời sống tâm linh trong Kitô giáo nằm trong sự tiếp nối liên tục với Cựu Ước. Đối với tín đồ Do Thái giáo, biết Thiên Chúa nghĩa là chứng nghiệm Thiên Chúa. Theo khoa nhân học thánh kinh 19 chỉ có một con đường để đi đến nhận thức là con đường của chứng nghiệm. Luật này cũng đúng trong việc đến với Thiên Chúa. Người Do Thái chỉ biết Thiên Chúa qua chứng nghiệm lịch sử cụ thể mà họ có về Ngài. Họ không hề biết đến những suy lý trừu tượng và siêu hình của chúng ta về bản tính và thuộc tính của Thiên Chúa. Họ biết Giavê vì họ đã từng chứng nghiệm về hành động cứu độ của Ngài: Chẳng phải Ngài đã dẫn họ ra khỏi Ai Cập để vào miền đất hứa đó sao? Kinh nguyện Do Thái luôn ám chỉ đến chứng nghiệm này. Thiên Chúa tỏ mình cho họ trong lịch sử, và lịch sử Israel gắn liền với lời cầu nguyện của họ. «Dân tôi hỡi, nghe lời tôi dạy bảo …
Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi lời huấn dụ
Công bố điều huyền bí thưở xa xưa
Điều chúng tôi đã từng nghe từng biết
Do cha ông kể lại cho mình
Chúng tôi chẳng giấu gì con cháu cả
Sẽ tường thuật cho thế hệ mai sau
Sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của Chúa
Với những kỳ công Chúa đã làm».
(Tv 78,1-4)
-------------Bằng ngôn ngữ Thánh Kinh
-------------Hơn nữa, mối liên kết giữa chân lý và chứng nghiệm nổi bật lên trong quan điểm của Thánh Kinh về chân lý. Walter Kasper lưu ý chúng ta điều này: -------------«Người Hy-Bá-Lai chẳng quan tâm đến những gì hiện hữu mà quan tâm đến những gì xảy đến mà họ chứng nghiệm được một cách cụ thể... Sự vật và con người chỉ bền vững nếu ăn khớp với sự mong đợi, và biện minh được niềm tin cậy mà họ trông chờ... Nên chân lý được thực hiện và luôn luôn tỏ lộ ra trong thời gian. Điều quan trọng là cái gì đã xảy ra hoặc sẽ xảy ra, chứ không phải “do suy tư để biết” là tự bản tính, là như thế hoặc phải như thế...Cái gì mặc lấy lịch sử thời gian, xảy ra thật, sẽ đến thì mới là thật...”20
-------------Sự kiện đó không làm cho mọi chân lý trở thành tương đối ; siêu hình học vẫn giữ được các giá trị của nó. Tuy nhiên, những nhận xét này đưa chúng ta vào trong cái nhìn của Kinh Thánh.
-------------Trong Cựu Ước, sự hiện diện tác động của Thiên Chúa được quan niệm như nằm bên ngoài con người. Còn trong Tân Ước, sự hiện diện ấy được nhận biết từ bên trong. Chính hành động thâm nhập của tình yêu của Thiên Chúa trong linh hồn giúp ta nhận ra bằng đức tin sự hiện diện của Ngài: «Ai tin vào Con Thiên Chúa thì có lời chứng ấy nơi mình» (1Ga 5,10). Theo quan điểm này, chúng ta hiểu rõ hơn câu nói của Đức Giêsu: «Ai thực thi chân lý thì hãy đến với ánh sáng». Đức tin và chứng nghiệm về Thiên Chúa gắn bó với nhau: chúng ta phải chấp nhận rằng hai sự kiện nhất thiết bổ túc lẫn nhau.21
-------------Những điều ấy xác minh vai trò và giá trị của chứng nghiệm tôn giáo đích thực. Nhưng đáng tiếc là có chứng nghiệm tôn giáo giả mạo. Giáo Hội biết rõ tình trạng ấy nên có lý do để cảnh giác chủ trương chủ-quan-thuyết thỉnh thoảng vẫn đe dọa sự toàn vẹn của đức tin. |
|