Suy niệm:

Một buổi chiều trên biển hồ Tibêria, đám dân chài bận rộn với nhiều công việc, vài thanh niên đang dọn dẹp ở trong khoang, còn mấy phụ nữ ngồi giặt và vá lưới. Nhịp sống vẫn đều đặn trôi qua, thế nhưng các tông đồ còn cảm thấy rã rời và buồn nản sau cái chết của Thầy Giêsu. Chẳng biết làm gì, các ông lại trở về với thuyền xưa lưới cũ chèo chống cho qua ngày. Để xua tan không khí ảm đạm ấy, ông Phêrô lên tiếng nói “tôi đi đánh cá đây”, các môn đệ khác đồng thanh đáp lại gợi ý của vị tông đồ niên trưởng. Và họ ra khơi nhưng tiếc thay họ vất vả suốt đêm mà không một con cá nào dính lưới.

Khi trời đã sáng, Đức Giêsu xuất hiện trên bãi biển trong dáng vẻ một dân chài chủ động bắt chuyện làm quen: “Này các chú, không có gì ăn ư?”. Câu chuyện dẫn các ông đến một kinh nghiệm “thả lưới bên phải mạn thuyền” và các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi thuyền gần như chìm. Để bù lại công lao vất vả và để đáp lễ với bác ngư dân tốt bụng kia đã “hiến kế”, các ông liền mở một “quán cá nướng” ngay trên bờ biển. Cá mới bắt được còn tươi roi rói, các ông quây quần bên bếp than hồng cùng chia sẻ bữa ăn đầy ý nghĩa. Bên bếp than đỏ hồng, mùi cá nướng bốc lên thơm phức và câu chuyện trao đổi càng ngày càng rôm rả vì các ông chưa từng chứng kiến mẻ cá lạ lùng như thế. Trong khung cảnh đầm ấm ấy, vị khách lạ ngồi ở giữa bẻ bánh và cá trao cho từng người. Cử chỉ thân thương ấy như một kỷ niệm lại ùa về trong ký ức khiến các ông nhận ra vị khách đang ngồi giữa các ông chính là Thầy Giêsu vừa sống lại từ cõi chết.

Thánh sử Gioan quả là người quan sát rất tinh tế khi lưu ý đến hai từ “đêm tối” và “trời sáng”. Các môn đệ ra khơi thả lưới trong đêm tối và các ông chẳng làm nên trò trống gì. Phải chăng ở đây “đêm tối” của không gian hay còn là “đêm tối” của đức tin, đêm tối của nỗi chán chường thất vọng. Khi ra đi trong nghi ngờ, chán nản thì các ông không thể nhận ra sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Chỉ khi “trời sáng” các ông mới nhận ra những cử chỉ thân thương gần gũi của Thầy Giêsu. Có lẽ, không bao giờ Phêrô quên được mẻ cá lạ lùng đó, vì ông còn nhớ chính xác đã bắt được 153 con cá.

Trong cuộc sống, khi xa nhau người ta thường nhớ về nhau với những kỷ niệm của một thời dấu yêu. Kỷ niệm ấy có thể là những lời nói, chiếc áo, chiếc khăn hay một đồ vật mang tính cá nhân. Với các tông đồ, kỷ niệm còn ghi đậm dấu ấn đó là cử chỉ “bẻ bánh”, cử chỉ của tình thầy trò, tình huynh đệ và của sự sẻ chia. Cử chỉ ấy có sức lay động và biến đổi khiến các tông đồ nhận ra đó là thầy Giêsu.

Thánh sử Gioan mô tả mẻ cá lạ lùng ở những điểm sau: Thứ nhất, các môn đệ ra khơi lúc ban đêm trời tối, nhưng khi trời đã sáng các ông mới bắt được cá. Thứ hai, các môn đệ phải thả lưới bên phải mạn thuyền theo lời Chúa Giêsu chỉ dạy thì mới bắt được cá. Thứ ba, con số 153 chính là tượng trưng cho các loài cá có ở trong lòng đại dương. Đây là con số biểu hiện tính phong phú đa dạng. Một khi có sức mạnh và sự trợ giúp của Đấng Phục Sinh, các môn đệ có thể thu phục và đưa dẫn được nhiều người về với Chúa.

Mẻ cá lạ được diễn tả qua ba yếu tố về thời gian đánh bắt cá, số lượng cá và nơi chốn thả lưới. Điều này cho thấy, Chúa Giêsu Phục Sinh đã làm thay đổi lối suy nghĩ, công việc và cuộc sống của các môn đệ. Từ nay các ông không đánh bắt cá lúc ban đêm nhưng là khi trời sáng. Các ông đã biết thả lưới “bên phải mạn thuyền” và có thể bắt được nhiều vô số các loại cá mà lưới không bị rách.

Nhận ra Đấng Phục Sinh phải là điều dễ đối với các môn đệ và đối với mỗi chúng ta. Bởi tâm trí chúng ta còn đầy những nghi ngờ cố chấp, chúng ta không có những kỷ niệm thân thương với Chúa, còn loay hoay trong “đêm tối” của những hẹp hòi, ích kỷ, nhát đảm và sợ hãi. Chúng ta không chịu “thả lưới bên phải mạn thuyền”, không lắng nghe sự gợi ý của Chúa nên không vượt qua được nỗi sợ hãi, nỗi thất vọng cô đơn. Khi chúng ta có sự gắn bó thiết thân với một người nào đó, chúng ta dễ dàng nhận ra “tín hiệu” của người ấy. Các môn đệ đã từng ăn uống với Chúa Giêsu, không nhiều thì ít các ông cũng còn nhớ hành động cử chỉ của Thầy. Nhưng có lẽ kỷ niệm ấy chưa đủ sâu đậm, tình yêu chưa đủ độ chín nên phải có cơ hội, có dấu chỉ cụ thể các ông mới nhận ra Thầy mình.

Hàng ngày, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn tỏ hiện trong cuộc đời chúng ta qua những cử chỉ yêu thương. Ước gì chúng ta luôn ghi nhớ những kỷ niệm thiết thân với Chúa, luôn khát khao tìm kiếm Ngài như Đấng giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi và chán chường để niềm vui Phục Sinh luôn chiếu sáng cuộc đời chúng ta.

Giữa biển đời đầy khó khăn, đôi lúc chúng ta cũng loay hoay mất định hướng, vất vả mà chẳng làm được việc gì. Xin cho chúng ta biết lắng nghe và nhận ra những dấu chỉ của Chúa, biết đâu là lúc thuận tiện, đâu là nơi chốn phải dấn thân phục vụ, để dẫn đưa nhiều người về với Chúa.

Nt. M. Anh Thư, OP
___________________________________________________________________________________

Mời bạn đọc:
Suy niệm của Maria Chinh Anh O.P.
Suy niệm của Lm. Micae Vũ An Lộc
Suy niệm của tgpsaigon.net
Lẽ sống ngày 6/4: