VIII. ẢNH TƯỢNG CÁC THÁNH

Trong truyền thống ảnh tượng thánh, có một ngôn ngữ tế nhị và phức tạp về biểu tượng, hình thức và màu sắc. Các Tông đồ và các Thánh sử có ngôn ngữ mô tả riêng, và các ngài có lý do để sử dụng ngôn ngữ ấy. Một khi đã có được ngôn ngữ hình thể ổn định, dù ở ảnh tượng hay kính màu, người tín hữu mù chữ cũng có thể dễ dàng nhận ra các hình ảnh. Vì thế, người ta thường thấy thánh Phêrô có nước da ngăm, thân người tráng kiện với râu tóc quăn và đen; thánh Batôlômêô với mái tóc hoa râm, nước da trắng, đôi mắt to, mũi cao và chòm râu dài; thánh Phaolô dáng cao niên, đầu hói, râu trắng dài, lưa thưa; thánh Gioan còn trẻ, không có râu; thánh Máccô tuổi trung niên, trán có nếp nhăn, mũi to, tóc vàng hoe, râu dài và có vài sợi tóc hoa râm; thánh Gioan Tẩy giả có hình dáng một ẩn sĩ với làn da lạc đà; vân vân… Mỗi vị thánh tông đồ được trình bày cùng với dụng cụ tử đạo hay dấu hiệu riêng của các ngài, như ở các bức tượng của Rusconi trong lòng nhà thờ Thánh Gioan Latêranô [hình 11]: thánh Phêrô tay cầm chìa khoá; thánh Batôlômêô bị lột da sống; thánh Phaolô giữ thanh gươm đã chém đầu ngài; thánh Giacôbê với những vỏ sò gợi lại việc thân thể ngài trôi dạt vào bờ biển ở Compostela một cách kỳ lạ; và thánh Philipphê, “giống như Thầy của mình là Đấng ngài rao giảng, ngài cũng chịu đóng đinh vào thập giá”.


Các thánh Tử đạo khác cũng có những dụng cụ hành hình (chẳng hạn thánh Laurensô bên vỉ nướng bằng sắt [hình 12], thánh Sebastian với những mũi tên và thánh Stephanô với một đống đá dưới chân ngài).

Ảnh tượng thường trình bày các thánh Tử đạo cầm nhành cây hương bá, ý nhắc đến đoạn Kinh Thánh “người công chính lớn mạnh như cây hương bá Li băng, được trồng nơi nhà Chúa” (Tv. 92,12-13).

Bốn thánh sử Tin Mừng được diễn tả bằng bốn sinh vật trong sách Khải huyền: bò, sư tử, con người và chim phượng hoàng (Kh.4,7) [hình 13].


Thánh sử Matthêu được thể hiện với hình dáng con người, vì ngài mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả, và ngài viết về nhân tính của Chúa Giêsu, việc Chúa giáng sinh và những năm đầu đời của Chúa [hình 14].

Thánh Marcô được biểu trưng bằng con sư tử của chi tộc Giuđa vì nhiều lý do [hình 15].

Trước hết, Tin Mừng thánh Marcô trình bày Chúa Giêsu là Vua. Thứ hai, Tin Mừng thánh Marcô bắt đầu với “tiếng kêu trong sa mạc”, được các giáo phụ sánh ví với sư tử rống lên trong sa mạc. Thứ ba, vì thánh Marcô mô tả việc Chúa Phục sinh, mà sư tử là biểu tượng, có liên quan đến giai thoại về một con sư tử mẹ làm hồi sinh những đứa con của mình bằng cách thở hơi trên chúng. Tương tự như thế, thánh Luca được thể hiện bằng hình ảnh con bò [hình 16], biểu tượng cho hy lễ của thầy thượng tế, vì ngài mở đầu Tin Mừng với thầy thượng tế Giacaria, ngài khai triển gia phả Chúa Giêsu qua hàng tư tế Lêvi, và ngài tường thuật rất hùng hồn về cuộc Khổ nạn và Hy tế của Đức Kitô.

Cuối cùng, chim phượng hoàng tượng trưng cho thánh Gioan [hình 17], bởi vì Tin Mừng của ngài vút bay lên đến Thiên tính của Chúa Kitô, bắt đầu bằng câu “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời...”

Trong ngôn ngữ biểu tượng phức tạp này, đôi khi hình ảnh cuốn sách được đưa vào ảnh tượng các tác giả Tân Ước (gồm các thánh sử Phúc Âm, thánh Phaolô, thánh Giuđa, thánh Giacôbê và thánh Phêrô). Cuốn sách đang mở biểu trưng cho tri thức hoàn hảo mà các tông đồ thánh sử được chính Chúa dạy bảo cách trọn vẹn. Ngôn ngữ phổ biến này, tuy chưa đạt tới mức toàn cầu hoặc tuyệt đối, nhưng vẫn được sử dụng bởi các nghệ sĩ có tinh thần trách nhiệm trong việc chế tác ảnh tượng thánh, bởi lẽ ngôn ngữ ấy giúp cho nghệ sĩ tránh được những vấn đề do cảm quan cá nhân và luôn hoạt động trong phạm vi truyền thống của nghệ thuật ảnh tượng thánh.

IX. ẢNH TƯỢNG CÁC THIÊN THẦN

Tôi muốn đưa ra một luật trừ trong các quy luật liên quan đến ảnh tượng trên cung thánh, đó là vị trí ảnh tượng các thiên thần. Các thiên thần có một vị trí quan trọng đặc biệt trong Kinh Thánh, trong lịch sử cứu độ và trong phụng vụ. Một điều thật thú vị là các hình ảnh mà Thiên Chúa truyền lệnh thực hiện đầu tiên chính là hình ảnh thể hiện các hữu thể vô hình, tức các Kêrubim trên nắp Hòm Bia Giao Ước. Hai vị Kêrubim đứng hai đầu và hộ giá Nắp Xá tội (Xh 25,18), tựa như việc các ngài canh giữ lối vào Vườn Địa đàng (x. St 3,24). Chủ đề này được tiếp tục thực hiện trong chương trình trang hoàng đền thờ do vua Salomon xây dựng. Trong Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước vua cho khắc ảnh các thiên thần nơi khung ghép trên tường và các cánh cửa, và quan trọng nhất là khắc hoạ các thiên thần canh giữ lối vào Nơi Cực Thánh (1V 6,23). Ở đây có hai tượng Kêrubim, với đôi cánh dài hơn năm thước, bảo vệ lối vào, rõ ràng có liên hệ đến các Kêrubim với “lưỡi gươm sáng loé” canh giữ lối vào Vườn Địa đàng.

Trong Kinh Thánh, các thiên thần không chỉ là dấu hiệu nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa (chẳng hạn 1Sm 4,4, Tv. 80,2 và 99,1, Lc. 1,35), mà còn được nhắc đến cách đặc biệt khi Thánh sử nói về phụng vụ Kitô giáo: “Nhưng anh em đã tới núi Xion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giêsu và được máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” (Dt. 12,22-24). Chính vì hiểu như thế mà sách Giáo lý Công giáo dạy: “Cho tới ngày Chúa quang lâm, tất cả đời sống Hội Thánh hưởng nhờ sự trợ giúp huyền nhiệm và hữu hiệu của các thiên thần. Trong phụng vụ, Hội Thánh liên kết với các thiên thần để tôn thờ Thiên Chúa ngàn trùng Chí Thánh. Hội Thánh khẩn cầu các thiên thần trợ giúp”, cầu xin trong Kinh nguyện Thánh thể thứ nhất: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa sai Sứ thần dâng lễ vật này lên bàn thờ cao sang trước tôn nhan uy linh Chúa”, và trong phụng vụ cầu cho tín hữu qua đời “Xin các thiên thần Chúa dẫn đưa bạn về thiên đàng.”

Cha Jean Daniélou viết một cách đầy thuyết phục về sự trợ giúp của các thiên thần trong Hy tế thánh lễ. Để minh chứng, cha đã trích dẫn rất nhiều giáo phụ:“Nhưng các thiên thần hiện diện đặc biệt trong Hy tế Thánh thể. Quả thật, thánh lễ là sự tham dự bằng bí tích vào phụng vụ trên Trời, là việc tôn thờ được toàn thể cơ binh các thụ tạo thiêng liêng trân trọng chuyển dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhờ có các thiên thần mà bí tích Thánh thể được đưa vào Nước Trời. Các thiên thần giúp hy tế được bao phủ bằng mầu nhiệm thánh. Thánh Gioan Kim khẩu viết: “Các thiên thần vây quanh linh mục. Cả cung thánh và không gian trước bàn thờ tràn ngập các thiên thần từ Trời đến để tôn vinh Người là Đấng hiện diện trên bàn thờ”. Ở nơi khác ngài viết: “Bây giờ bạn hãy nghĩ đến cơ binh thiên thần mà bạn sắp gia nhập. Mặc dù bạn đang sống trong thân xác, nhưng bạn đã được đánh giá là xứng đáng gia nhập vào đoàn ngũ các thiên thần trên trời để ca hát chúc tụng Người là Chúa của muôn loài.” “Này là bàn tiệc vương giả, có các thiên thần phục vụ. Chính Chúa hiện diện nơi đó.”

Cha Daniélou kết thúc phần bàn về các thiên thần trong phụng vụ bằng một đoạn văn nổi tiếng của thánh Gioan Kim khẩu: “Các thiên thần hiện diện nơi đây. Hôm nay các thiên thần và chư thánh tử đạo hội ngộ. Nếu muốn nhìn thấy các thiên thần và các thánh Tử đạo, bạn hãy mở mắt đức tin mà chiêm ngắm quang cảnh này. Nếu trong không trung có đầy các thiên thần, thì trong Giáo Hội các thiên thần còn hiện diện nhiều hơn. Và nếu trong Giáo Hội có đầy các thiên thần, thì ngày nay quả còn có nhiều thiên thần hiện diện hơn nữa khi Chúa của các ngài đã lên Trời! Trọn vẹn không gian quanh chúng ta tràn đầy các thiên thần.” Lời văn phong phú này đã được diễn đạt bằng ngôn ngữ kiến trúc qua dòng lịch sử kiến trúc nhà thờ. Một trong những công trình nên thơ nhất được tìm thấy trên tấm đỡ rầm nhà thờ Thánh Wendreda [hình 18] ở March, Cambridgeshire.


Ở đó có hơn một trăm thiên thần bay trên không gian lòng nhà thờ thành một cơ binh thiên thần vinh hiển. Chủ đề này cũng có trong cách trang trí trần nhà thờ chính toà Ely ở gần đó [hình 19].

Thuộc phong cách Barốc, đông đảo các thiên thần do Bernini thiết kế ở nhà thờ San Andrea al Quyrinale và các thiên thần do Borromini đưa vào nhà thờ San Ivo della Sapienza đã diễn tả lời Kinh Thánh rằng chúng ta “được vây quanh bởi vô số các nhân chứng” [hình 20].

Nhận thức này đưa tôi đến kết luận rằng, một khi đã biết rõ vị trí đặc biệt của các thiên thần trong đời sống Giáo Hội, thì việc dùng ảnh tượng diễn tả các ngài trên cung thánh không những là thích hợp, mà còn nên được khuyến khích, vì các ảnh tượng thiên thần nói lên việc chúng ta tham dự vào bữa tiệc Chiên Con trong Nước Trời. Trong nhà thờ, cung thánh, lòng nhà thờ và giếng rửa tội nên có nhiều ảnh tượng các thiên thần để mô tả sống động thực tại thần thiêng vô hình này! Ảnh tượng các thiên thần cũng như ảnh tượng các thánh nói lên các chân lý thiêng liêng, và đây là lý do đủ cho phép việc trưng bày ảnh tượng các ngài. Ngoài ra, ảnh tượng các thiên thần và các thánh giúp chúng ta nhớ rằng cộng đoàn giáo xứ không cô độc hay bị tách rời, nhưng liên kết với việc thờ phượng của toàn thể Thân Mình Mầu nhiệm Chúa Kitô. Ở đây và ngay lúc này, trong thánh lễ tại giáo xứ này, chúng ta được hòa chung vào phụng vụ trên thiên quốc của Giáo Hội khải hoàn cùng với toàn thể các thiên thần và các thánh qua Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm của chúng ta, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và đến với vinh quang của Đức Chúa Cha toàn năng. Đó là lý do tại sao qua nhiều thời đại, các nhà thờ luôn có đầy hình ảnh các thiên thần dưới dạng bích hoạ, tranh khảm, tượng đồng và đá: những ảnh tượng đó là chứng từ cho ta thấy chỗ ở của chúng ta trong vương quốc của Thiên Chúa, đồng thời nhắc cho chúng ta nhớ rằng các thiên thần hằng chuyển cầu, bảo vệ và trợ giúp chúng ta.

X. CÁC CHẶNG ĐÀNG THÁNH GIÁ

Một chuỗi những ảnh tượng khác cần được khảo sát là các Chặng đàng Thánh giá [hình 21], tức các hình ảnh trình bày điều mà truyền thống cho là những chặng đường trong cuộc Khổ nạn của Chúa chúng ta.


Các Chặng đàng Thánh giá thường được sắp xếp chung quanh chu vi khu vực lòng nhà thờ, để các tín hữu đi Đàng Thánh giá tưởng niệm via dolorosa, nghĩa là con đường Chúa vác thập giá qua các phố xá Giêrusalem [hình 22].

Việc đạo đức này chỉ mới phổ biến trong Giáo Hội từ thế kỷ thứ 17, và không bắt buộc phải có trong nhà thờ. Nếu các Chặng đàng Thánh giá được đặt trong lòng nhà thờ, chứ không phải ở khu hành lang nhà thờ hay trong khu vườn ngoài trời, thì tượng ảnh của các Chặng đàng Thánh giá cần phải hoà hợp với kích thước cũng như kiểu dáng của nhà thờ và luôn phải tuân theo các yêu cầu của phụng vụ. Vì thế, các Chặng đàng Thánh giá ở ngoài nhà thờ có thể dành cho nghệ sĩ phạm vi thiết kế rộng rãi hơn. Cha O'Connel, chắc chắn quá quen với vấn đề về những Chặng đàng Thánh giá thô thiển, đã đề nghị rằng “nếu không thể sắm những ảnh tượng có giá trị, thì tốt hơn là nên hài lòng với một cây Thánh giá mà thôi (kèm với tên gọi mỗi Chặng)”. Không nên vội vã quyết định loại bỏ các tượng ảnh các Chặng đàng Thánh giá như thế, nhưng hãy nỗ lực để tìm cho được những ảnh tượng xứng đáng và có giá trị thẩm mỹ cao để diễn tả các Chặng đàng Thánh giá.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, số 77 (tháng 7 & 8 năm 2013)