|
ĐGH Gioan Phaolo II và lễ “Lòng Chúa thương xót”.
Ngày nay, lễ “Lòng Chúa Thương Xót” đã rất phổ biến trong toàn Giáo-hội, và không phải chỉ trong ngày lễ mà trong sinh hoạt hằng ngày, ta vẫn đọc các kinh nguyện và lần hạt về “Lòng chúa thương xót”.
Sự lan truyền dễ dàng và sâu rộng này có tính tự nguyện và tự giác nhiều hơn là do sự truyển bá có tính cách thúc đẩy từ các đấng bề trên, tại sao vậy?
Phải chăng vi đây thuộc lĩnh vực tình yêu nên nó dễ dàng gây cảm xúc lòng người và có lẽ đã đem đến cho lòng người một khuynh hướng mới, thay thế cho đường lối sống đạo cổ xưa, chỉ nặng về răn đe, hình phạt và hỏa ngục.
Nếu ta nhìn lại vài cải cách của ĐGH, ví dụ ngài nói trong văn thư “Tân Phúc-âm hóa”, có câu: từ trước tới nay, giáo dân chỉ quen giữ đạo theo kiểu “Vị luật”, nghĩa là chỉ giữ đạo sao cho không bị tội, bị phạt, bị sa hỏa ngục, mà thiếu lòng yêu mến đạo Chúa.
Vậy, phải chăng, từ trong chiều sâu tâm khảm, giáo dân đã không thoải mái hài lòng với cảnh sống đạo có tính cách gò bó và sợ hãi này, Cho nên khi ĐGH lập ra lễ lòng chúa thương xót, nó đã gây ra như một phong trào sống đạo mới với một khuynh hướng mới về sống đạo, và do đó giáo dân đã cởi mở bừng bừng đón nhận một cách tự nguyện chăng!
Là con người, ai cũng muốn có cuộc sống trong sự thương yêu. Vì chỉ có lòng yêu mến mới sinh ra sự bình an. Trong gia đình nếu cha mẹ thật lòng yêu thương con cái thì lòng yêu mến này sẽ tỏa ra bình an, hanh phúc cho mọi thành phần trong gia đình.
Vậy, trong bài này, chúng tôi xin góp ý với vài chuyện về lòng thương xót của Chúa.
1. Trong chuyện “Đứa con hoang đàng”, có câu: “Khi người cha thấy đứa con từ đằng xa, ông đã vội chạy đến ôm lấy đứa con”. Ta suy diển câu này thế nào?
Phải chăng người cha đã bất chợt bước ra cửa, trùng hợp với lúc đứa con đang trên đường trở về nhà? Thực khó tin là có sự trùng hợp đúng từng giây phút như vậy. Cách suy luận có lý hơn, đó là người cha đã vẫn ngày đêm ra đứng ngoài cửa, hay ngoài cổng, nhìn chằm chặp về phía đầu đường xa xa, và khi thấy một bóng người giống con mình, gầy gò thất thiểu đang tiến bước đến gần, ông đã nhận ra và chạy đến ôm chầm lấy đứa con, không ngần ngại đứa con dơ bẩn, hôi hám, rồi có lẽ ông đã khóc oà lên vì mừng mừng tủi tủi.
Ta có thể hiểu được rằng, đứa con bỏ nhà ra đi đã lâu lắm rồi, vì phải có một thời gian lâu mới ăn tiêu hết số tài sản lớn của người cha, rồi trải qua thời hạn hán đói khổ, phải đi làm thuê, một thời gian sau mới nghĩ lại đến việc tìm về nhà cha.
Trong thời gian này, người cha đã sống trong đau khổ ngày đêm vì mất con, chắc chắn ông đã sai người đi tìm khắp nơi, hoặc chính ông cũng đã đi tìm con.
Có ai đã từng trải qua hoàn cảnh này thì mới thấu hiểu được sự đau đớn của người làm cha mẹ, suốt ngày đêm bồn chồn, không ăn không ngủ vì thương nhớ và lo lắng cho đứa con thất lạc.
Nghĩa là muốn hiểu thấm thía được lòng Chúa thương xót trong bài dụ ngôn này, ta phải dụng tâm dụng trí mà suy niệm.
Trong dụ ngôn này có một đoạn văn ngắn, nhưng quan trọng, mà ta hay bỏ qua, đó là người anh cả, khi thấy cha mình nồng nhiệt đón nhận đứa em hư hỏng trở về và mở tiệc tưng bừng…
Đoạn văn này cho ta hai khía cạnh đáng suy nghĩ, như sau đây:- Người anh cả này đã tỏ ra ghen tị với em, anh ta cho rằng mình là người có công lao với cha bấy lâu nay mà không được cha mình cư xử rộng rãi như đứa em, thương đưa em hơn mình…
Trong cuộc sống thường ngày, nhiều khi chúng ta cũng tưởng mình đã là người đạo cao đức dày, cho người khác là kém cỏi, tội lỗi, đáng khinh bỉ, lên án. Khi thấy ai hơn mình thì lại tỏ ra ghen tị, moi móc, chê bai.
- Người anh, vì mất bình tĩnh đến cao độ, đã dám tỏ ra bất bình với người cha, kể cả từ chối đi vào nhà để dự tiệc…
Trong cuộc sống, chúng ta có thể đã bất bình với người khác: con cái cãi lại cha mẹ, giáo dân chống lại cha xứ, HY và GM chống lại ĐGH.
Tất cả hiện trạng này đều do thái độ kiêu căng, tưởng mình là hơn người và nhất là do còn thiếu tu luyện về Đức khiêm nhường, kiên nhẫn để tự kiểm chế; mất bình tĩnh đến nổi dám từ chối vào nhà cha để ngồi vào bàn tiệc (Chúa).
2. Dụ ngôn: Chúa đi tìm con chiên lạc:
Việc kiểm tra đoàn chiên là khi dắt đàn chiên về chuồng, nghĩa là khoảng thời gian về chiều, Chúa mới thấy là thiếu một con chiên!
Chúa vội vã chạy ngược về lối cũ để tìm nó, không ngại vất vả, đường đi gập ghềnh, lên đồi xuống khe, lục soát từng bụi rậm, bờ sông, khe suối. Cặp mắt Chúa đảo tứ phương và miệng thì lớn tiếng kêu gọi tên con chiên lạc… mặc dù trời đã về chiều hoặc có thể là đêm đã tối đen… Chợt khi thấy con chiên bé bỏng, đang lạc lõng bơ vơ, Chúa đã reo mừng, chạy vội đến cúi mình ôm lấy nó, và lập tức săn sóc các vết thương của nó và rồi vác lên vai và mừng rỡ đem về, quên hết những khó khăn nhọc nhằn vừa qua.
Hình ảnh rõ nét trong chuyện này là tình thương yêu của Chủ Chăn với con chiên Lạc. Chuyện này làm chúng tôi liên tưởng đến lá thư chung của HĐGM VN cách đây vài chục năm, trong đoạn gửi cho các linh mục VN, có một câu tế nhị và dí dỏm như sau: Xin các cha hãy bước ra khỏi phòng thánh để đến với đàn chiên Chúa.
Rồi một chuyện nữa là trong dịp kết thúc hội thảo của giáo dân ở tổng giáo phận Sài Gòn Cách đây vài năm, thì tất cả các bản báo cáo của tám khu giáo dân đều có một câu kết luận giống nhau, đó là: xin các cha hãy đến với chúng con!
Có một vấn nạn mà anh em chúng tôi muốn xin các Chủ Chăn thương đến các con chiên lạc, đang vướng mắc vào các bụi gai gia đình tan vỡ, tái hôn, ly hôn, con cái bơ vơ.
Trong khi ĐGH Francis đã rộng ban đường lối tháo gỡ để những con chiên mắc nạn này được trở về thì gần như hầu hết các Đấng đều thản nhiên quay mặt đi; đây là chưa nói đến những giới trẻ ngày nay đã xa đạo, xa Chúa mà nhiều Đấng chỉ biết phàn nàn hoặc kết án trong các bài giảng.
3. Chuyện “người phụ nữ bị kết tội ngoại tình”.
Chúa nói với bọn người kết tội rằng: ai thấy mình không có tội thì hãy ném đá trước đi; thế rồi bọn người này đã bỏ đi hết. Vậy nghĩa là họ đều là người có tội chẳng hơn gì người đàn bà mà họ đang kết tội.
Ngày nay, việc kết án, phê bình, chỉ trích đang thành như một cái phong trào. Kết án phá thai, đồng tính, ấu dâm, buôn người, v.v. Đâu đâu cũng thấy người ta lên giọng kết án người khác mà không hề thấy mình cũng đáng bị lên án.
Mình kết án người khác vì chị thấy họ có “tội trống”, là thứ tội lộ ra bên ngoài mà ai cũng thấy được, còn mình thì không thiếu gì những “tội kín”, nhưng không ai trông thấy.
Ta kết án những tội ác là đúng: Phá thai là tội giết người, nhưng mặt khác, cũng phải tìm hiểu nguyên nhân để mà thương xót những bà mẹ đau khổ.
Bao nhiêu thống kê đã cùng có một kết luận, đó là phần lớn người ta phá thai là vì kinh tế. Vì nghèo không đủ sức nuôi con đến khôn lớn.
Vậy tại sao nghèo, chắc nhiều người trong chúng ta đã từng đọc các thống kê rằng: chỉ có khoảng 5% những người giầu đã chiếm trên 50% của cải trên thế giới. Sự chiếm hữu này gồm cả mọi phương tiện bất công đến nỗi nhiều nạn nhân đã đi đến tự tử hoặc nổi loạn.
Một lý do nữa mà ta nên thương họ, đó là tại họ không hiểu đạo lý giống như ta; nhiều người không có đạo hoặc không còn giữ đạo nữa cho nên Họ không hiểu việc phá thai là trọng tội như ta.
4. Trên Thánh-giá, Chúa xin Cha: “xin Cha tha tội cho chúng vì chúng lầm, chẳng biết việc chúng làm”.
Chùa không chỉ xin Chúa Cha tha tội, mà còn tỏ thái độ “bao che”, nghĩa là bào chữa cho đám người giết Chúa, là “chúng lầm chẳng biết việc chúng làm”.
Đặc điểm của sự việc này là nó đã xảy ra vào giờ phút cuối đời của Chúa, lúc thân xác tan nát và đau đớn đến tột cùng và tâm thần thì cực kỳ cô đơn, nhìn chung quanh thì bao nhiêu đồ đệ đã bỏ đi hết, nhìn lên trời thì Chúa chỉ biết kêu lên: Cha ơi, sao Cha bỏ con!
Đây là đỉnh điểm của lòng thương xót.
Chúa chỉ biết tha và tìm đủ lý lẽ để tha! Còn chúng ta thì sao?
Xin đề nghị: Từ mấy đoạn Phúc-âm trên đây, chúng tôi xin góp ý rằng: người giáo dân bình thường nên đọc phúc âm và suy diễn theo cách thực dụng vào cuộc sống hằng ngày.
Là giáo dân, chúng ta thường không có thì giờ và kiến thức như các chủng sinh trong chủng viện. Vậy cho nên, khi đọc Thánh-kinh, nếu ta chỉ học hỏi về những chi tiết như địa lý, lịch sử, niên đại hay các khía cạnh kĩ thuật, mĩ thuật của Kinh-thánh, v.v. thì chúng ta sẽ chỉ học kiểu thuộc lòng, từ chương. Cho nên, ta hãy suy niệm những ý tưởng của từng câu Kinh-thánh để tìm ra những bài học thực tiễn có thể áp dụng trực tiếp vào cuộc sống của chúng ta hằng ngày.
--------------------------------------------------------
Để kết luận: Giáo-hội đã và đang thay đổi.
Bắt đầu từ Cộng đồng Vatican II, Giáo-hội đã có khuynh hướng cải tiến cho hợp với thời đại. Bộ Giáo-lý và bộ Giáo-luật đã được viết lại, và vài lĩnh vực trong đời sống gia đình cũng đã được thay đổi ví dụ là lập ra các tòa án hôn phối ở các Địa phận để trực tiếp giải quyết cho các cặp gia đình gặp rắc rối về hôn phối.
Đến thời ĐGH Gioan Phaolô II, thì ngài đã có vài thay đổi quan trọng nhưng lại rất âm thầm, đó là thay thế hầu hết các HY người Ý bằng Hồng y các nước trên toàn thế giới.
Thứ đến là văn thư quan trọng với đề tài là “ Tân phúc âm hóa”. Văn thư này đã vach ra một đường hướng rất quan trọng là cải tổ cách sống đạo. Phá bỏ tinh thần “Vị luật” của thời cũ. Nhưng văn thư này đến nay cũng không có mấy địa phương tiếp tục mạnh mẽ.
Rồi Ngài lập ra lễ “Lòng Chúa thương xót” để giới thiệu khuynh hướng sống đạo với tình yêu, thay thế cho những quan điểm cũ là “Vi luật”, nghiêm khắc, răn đe bằng hình phạt, hoả ngục, v.v. và chương trình này đang lớn mạnh trong cuộc sống Giáo-hội.
Đến nay, ĐGH Francis, Ngài cũng vẫn tiếp tục đường lối của Công đồng Vatican II và của ĐGH Phaolô II.
ĐGH Francis đưa ra nhiều cải cách và và cuối cùng thì như ta đã biết Hội nghị các GM thế giới vừa kết thúc hồi tháng 10 năm 2024.
Hội nghị đã kết thúc với tỷ lệ 395 trên 400 thành viên, chấp thuận đường lối của ĐGH Francis đã đề ra.
Đây có thể coi là một đại cải cách trong Giáo-hội thời nay.
Ta sẽ thấy trong tương lai, những thay đổi đáng khích lệ cho toàn dân Chúa. Chúng tôi xin chưng ra đây vài thí dụ lớn như: Sẽ có sự cải tiến trong bộ Giáo luật; sẽ có sự thay đổi trong hệ thống đào tạo hàng linh mục; giáo dân sẽ được mời gọi tham gia vào sinh hoạt của Giáo-hội; Giáo-hội sẽ có nhiều chương trình gần gũi với người nghèo và những vấn nạn của xã hội hôm nay.
Đây là gia sản to lớn mà ĐGH Francis đã để lại cho giáo hội. Cuộc đời Giáo-hoàng của Ngài trong hơn 10 năm qua đã gặp không biết bao nhiêu sóng gió, nhưng nay đã vượt qua và có vẻ yên lặng.
Phụ lục:
1.Suy tư về Giáo luật 915: Sơ lược về điều luật rằng: Trong hoàn cảnh đặc biệt, mặc dù đang mắc tội trọng, ta có thể ăn năn tội cách trọn và lên rước lễ với ý định là sẽ xưng tội sau.
Điều luật này đã có từ nửa thế kỷ nay, và các cha DCCT ở Sài Gòn cũng đã từng cho phép một số giáo dân được rước lễ một cách cấp thời. Rồi khoảng một năm trước đây, thì có sự trùng hợp, đó là ở nhà thờ chính tòa Sài Gòn cũng có cha giảng về vấn đề này, cùng khoảng thời gian đó, ở nhà thờ chính tòa quận cam bên Cali, cũng một hai lần có cha giảng như vậy. thế rồi từ đấy đến nay mọi chuyện đều tắt nguồn tại sao vậy?
Đây là một vấn nạn mà anh em chúng tôi từ nhiều năm nay, đã rất khắc khoải trông mong sự quyết đoán minh bạch của các Đấng Bậc trong giáo hội. Giáo luật thì mở hé cửa rồi khi áp dụng thì lại đóng vào?
Chúng tôi là những bậc cha ông, tuy cao tuổi nhưng vẫn thương cảm cho đàn con cháu đông đúc và giới trẻ ngày nay đang sống xa Chúạ vì luật lệ chồng chéo và không minh bạch như ví dụ trên đây.
Đến nay, khi thấy trong bài tổng kết của HDGM thế giới vua qua, khi nói đến sự cải tiến bộ Giáo luật, có đoạn văn rằng: (nguyên văn như sau: … clarification of the distinctions between consultative and deliberative involvement in decision making).
Chúng tôi nghĩ có thể hiểu như sau, ít là một khía cạnh, đó là tách rời sự việc thành các ranh giới:
- Tư vấn (Linh mục) chỉ trình bày và giải thích giáo lý, giáo luật. Không đưa ra phán đoán.
- Suy xét, cân nhắc: (đối tác là giáo dân) sẽ chủ động trong việc suy xét.
- Chọn lựa quyết định (chính đổi tác là giáo dân) sẽ tự chọn lựa quyết định cho mình.
2. Suy tư về sự tự do trong việc ly hôn, tái hôn: Khi tranh luận về tài liệu “Amoris Laetitia” của ĐGH Francis, nhiều HY và GM đã bênh vực các nạn nhân vì đã ở trong hoàn cảnh bất đắc dĩ, không có tự do chọn lựa nào khác hơn là ly dị, hoặc đã tái hôn cũng vì phải tìm chỗ dựa trong cuộc sống. Họ đáng thương hơn là đáng trách v.v.
Đi ngược lại từ ngày đầu của các cuộc hôn nhân, bao nhiêu cặp đã không có hoàn cảnh tự do chọn lựạ: Bị chi phối bởi tình cảm nồng nàn của thuở ban đầu, vì sự chiều chuộng, quà cáp của cả hai bên, có khi từ cả hai bên gia đình, có khi có cả sự giấu diếm những khuyết điểm của mỗi bên, v.v.
Trên đây là vài ví dụ, mà các tòa án hôn phối địa phận đã điều tra trong các vụ xin hóa giải hôn phối.
Một câu chuyện khác về sự tự do trong tòa giải tội: trong thời đầu cuộc chiến tại miền Bắc Việt Nam, một giáo dân đã không dám đi xưng tội trong nhiều năm, vì một tội có dính đến xã hội (và vị linh mục lại rất thân với chính quyền). Sự kiện này đã nằm sâu trong ký ức của tôi từ mấy chục năm, và một lần tôi nêu lên trong một hội thảo với mấy vị linh mục thì có hai loại giải đáp trái chiều: có linh mục giải đáp rằng: nếu giấu tội trong trường hợp này cũng có thể chấp nhận được, vì hối nhân không có đủ tự do, nhưng một linh mục khác không đồng tình, là phải xưng tội thì mới được tha, và phải tin tưởng vị linh mục với tính bảo mật phép giải tội, (ngày nay ít ai dám tin tưởng vào lập luận này nữa vậy khi biết rằng một số giám mục Balan, hồi còn chế độ cộng sản, đã từng tiết lộ vài bí mật cho chính quyền).
Thưa các Đấng Bậc trong Giáo-hội,
Có lẽ vì trong đầu óc chúng con mang nặng những khắc khoải của vấn nạn kể trên, cho nên chúng con tìm tòi và hỏi han thì chúng con hiểu thể này: Trong những vấn nạn mà luật lệ không có chi tiết minh bạch như ví dụ luật 915 trên đây, thì có thể xin các đấng cứ đưa ra những dẫn dắt và giải thích như cách thức một kim chỉ nam, để cho đối tượng là giáo dân có thể hiểu được đến mức độ kiến thức của họ, và sau đó họ sẽ tự quyết định theo lương tâm của mình đối với Chúa.
Nếu sự suy diễn của chúng con có đúng được một khía cạnh nào đó và có thể áp dụng vào điều luật 915 nêu trên đây, hoặc những trường hợp tương tự khác, thì cũng là điều vui mừng cho giới trẻ mà ngày nay con số này có thể lên hàng triệu triệu người đang sống xa Giáo-hội Chúa.
Chúng con suy luận rằng, nên rộng rãi cho họ được tiếp xúc dễ dàng hơn với Thánh-thể Chúa, giống như là mở cho họ một ngã quẹo, vào con đường trở về với Chúa, vì một khi họ đã theo ngã rẽ này là họ đã thoát ra được phần nào nếp sống cũ và họ sẽ dễ dàng theo đà làm quen với hướng đi mới và rồi nhờ ơn Thánh-thể Chúa mà họ có thêm sức sống thiêng liêng để tiếp tục sống đạo.
Giáo luật số 915, đã có từ hơn nửa thế kỷ nay rồi, nhưng chỉ vì không được áp dụng một cách cởi mở rộng rãi mà thôi.
Chúng con tha thiết xin các đấng lắng nghe chúng con vì chúng con là những lớp ông bà cha mẹ đã già, nhìn đến đám con cháu và bạn bè của chúng mà lo lắng.
Chúng con xin nêu ra những hình ảnh cụ thể rằng: ngày nay trong nhà thờ chỉ còn một số người già và một số ít giới trung niên, còn giới thiếu niên trở xuống, thì e sợ rằng khi chúng lớn lên, chúng có thể sẽ đi theo vết của lớp đàn anh của chúng, rồi sẽ xa lìa Giáo-hội Chúa và lúc đó thì nhà thờ sẽ càng trống vắng. Vì vậy sự cải tổ ngay hôm nay thật là cấp thiết.
Khi Giáo-hội kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II, thì nhiều bài bình luận đã nói rằng, sở dĩ các chương trình của Công đồng không tiến mau được là vì nhiều HY GM vẫn còn bảo thủ.
ĐGH Gioan Phaolô II, trong mấy lần xin lỗi thế giới vì những sai sót của vài thành phần trong Giáo-hội thì đã bị một số HY GM phản đối mạnh mẽ vì thái độ cởi mở của ĐGH.
Còn về phần ĐGH Francisco thì từ hơn chục năm nay, Ngài cũng đã chịu nhiều đau khổ vì sự chống đối từ nhiều cấp bậc trong Giáo hội.
Chúng con dám mạo muội viết ra những dòng trên đây vì chúng con nghĩ rằng: Chúng con có thể đạo đạt lên các đấng cái nhìn thực tiễn của bậc làm ông bà, cha mẹ.
Anh em chúng con, đã trải nghiệm trên dưới 60 năm làm ông bà, cha mẹ, đã trải qua cuộc sống đầy gian khổ trong chiến tranh, giầu nghèo, di cư từ Bắc Nam rồi tí nạn ra ngoại quốc.
Chúng con xin đóng góp các trải nghiệm thực tiễn của đời chúng con để mong cho con cháu chúng con được chăm sóc hơn trong cuộc sống đạo của chúng.
Nguyễn Thất-khê,
Các chủ đề cùng thể loại mới nhất:
|
|