|
CHƯƠNG II
NHỮNG HANG TOẠI ĐẠO
Hang toại đạo thánh Callisto và thánh Sebastiano dọc theo đường Appia Antica là những hang toại đạo nổi tiếng được du khách viếng thăm nhiều nhất. Thực ra, hang toại đạo là những đường hầm do các tín hữu Kitô đào xới dưới lòng đất để chôn cất các người quá cố. Những nghĩa trang này phổ thông trong 3 thế kỷ đầu của Kitô giáo. Trong những thế kỷ sau đó, các tín hữu thường hay chôn cất người quá cố tại các nghĩa trang gần nhà thờ. Hang toại đạo chứa rất nhiều hài cốt các thánh tử đạo nên được các tín hữu đến kính viếng và hành hương. Sau hai lần hang toại đạo bị quân Goths cướp vào năm 537 và Lombardi vào năm 755, những hài cốt các thánh tử đạo được chuyển về các nhà thờ ở Roma. Những quân cướp muốn cướp những đồ vật quý báo, đồ trang sức cũng như hài cốt các thánh tại hang toại đạo.
Các hang toại đạo gồm những đường hầm rộng hẹp khác nhau được đào bới dưới lòng đất khoảng 25 thước sâu. Du khách có thể đi thăm những đường hầm của tầng thứ hai của hang toại đạo sâu khoảng dưới 14 thước. Những đường hầm gặp nhau tại những phòng có chiều kích rộng gọi là phần mộ của gia đình. Các hang toại đạo nằm trong các vùng đá ong nên dễ đào bằng những phương tiện thô sơ. Khi gặp khí trời, đá ong trở nên cứng rắn. Hai bên đường hầm có các hộc để xác người quá cố với trang phục và đồ trang sức được bọc trong khăn liệm. Ở ngoài hộc có ghi tên hoặc vẽ các hình khác nhau như cành lá vạn tuế, chim bồ câu hay những hình ảnh từ Thánh Kinh. Phần mộ của gia đình rộng hơn với những hình vẽ hoặc chạm trổ nghệ thuật hơn. Các hình vẽ và các bức chạm trổ thường lấy cảm hứng từ Thánh Kinh như: ngôn sứ Giona, cảnh Abraham tế lễ, Môse cho nước vọt ra từ tảng đá, Noe trong tàu, Lazaro sống lại, Chúa là Mục Tử tốt lành…
I. HANG TOẠI ĐẠO THÁNH CALLISTO
1. Lịch sử
Trong thế kỷ thứ nhất, các Kitô hữu không có nghĩa trang riêng biệt nên họ chôn cất những người thân thuộc của gia đình tại những hầm mộ gia đình hoặc tại các nghĩa trang của những người ngoại giáo. Chính thánh Phêrô cũng được chôn táng như thế trong nghĩa trang cành cho mọi người trên đồi Vatican. Vào giữa thế kỷ thứ 2, các Kitô hữu dành những đất đai dâng tặng để thiết lập những nghĩa trang riêng tách biệt khỏi nghĩa địa của những người ngoại giáo. Kể từ thời gian đó có các hang toại đạo Kitô, trong đó có hang toại đạo thánh Callisto. Đầu thế kỷ thứ 3 hang toại đạo thánh Callisto trở thành nghĩa trang chính của cộng đoàn tín hữu Roma. ĐGH Giepherino trao hang này cho phó tế Callisto đang coi sóc cộng đoàn Kitô lo việc đào mộ cũng như coi sóc nghĩa trang nhân danh Giáo Hội. Nhiệm vụ của phó tế Callisto là lo cho mỗi anh chị em được chôn táng trong một nấm mộ xứng đáng trong nghĩa trang Kitô, không kể họ là người nghèo khổ hoặc nô lệ. Nghĩa trang Callisto mang tên người cai quản đầu tiên của nghĩa trang.
Sau những cuộc bách hại chấm dứt vào đầu thế kỷ thứ 4, hang toại đạo được mở rộng chu vi hơn 15 mẫu đất với những đường hầm dài khoảng 20 cây số. Những đường hầm này nằm sâu hơn 20 thước dưới mặt đất nằm trong 4 tầng. Thói quen chôn táng người quá cố chấm dứt vào thế kỷ thứ 5. Các Kitô hữu thích chôn cất người quá cố ngoài trời. Tuy nhiên, các tín hữu vẫn đến hang toại đạo thánh Callisto thăm viếng trong suốt 4 thế kỷ liền sau đó vì có nhiều vị tử đạo được chôn cất tại đây. Những quân Goths và Longodia đã cướp phá các hang toại đạo. Vào cuối thế kỷ thứ 8, vì lý do an ninh nên các ĐGH đã quyết định dời các hài cốt các vị thánh tử đạo vào các nhà thờ ở Roma. Sau khi hài cốt các vị thánh tử đạo được dời đi nơi khác, hang toại đạo thánh Callisto không còn là nơi hành hương nữa. Các cầu thang dẫn xuống các hầm của hang toại đạo bị đất lở che lấp đi. Thêm vào đó, cây cỏ mọc lên che lấp lối nên các hang toại đạo bị bỏ rơi trong lãng quên suốt thời Trung Cổ. Chuyên viên khảo cổ Antonio Bosio người Malta bắt đầu cuộc tìm kiếm vào năm 1600 và được coi trọng như ông Cristofo của lòng đất Roma. Đến năm 1852, nghĩa trang thánh Callisto mới được nhận hoàn toàn nhờ chuyên viên khảo cổ đại tài Giovanni Battista de Rossi là người sáng lập và cha đẻ của khảo học Kitô.
2. Các biểu hiệu
Các Kitô hữu thường vẽ các biểu hiệu trên tường, các hộp chôn xác hoặc trên bia mộ. Các biểu hiệu là những hình ảnh hay dấu chỉ cụ thể để gợi lên một tư tưởng hoặc một thực tại thiêng liêng. Đấng Chăn Chiên Tốt Lành đang ôm con chiên trên vai ám chỉ Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và linh hồn đã được Người cứu rỗi. Người giang tay cầu nguyện biểu lộ người bìmh an đã được nghỉ trong bình an với Chúa. Con cá (tiếng Hy Lạp là Ikhtous được viết theo hàng dọc, các vần này trở thành các mẫu tự đầu của các chữ Iesous Kristous Theou Huios, nghĩa là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu thế) là loại ghép chữ đầu câu hoặc đầu hàng. Ký hiệu của Chúa Kitô do hai vầ của tiếng Hy Lạp kết hợp lại: vần chi và vần rô được viết cuốn vào nhau thành Christos, nghĩa là Chúa Kitô. Chữ Christos được viết khắc trên mộ bia biểu thị rằng người nằm trong mộ là người tín hữu Kitô. Con chim bồ câu ngậm nhành lá ôliu biểu lộ cho một tâm hồn được ở trong niềm bình an của Thiên Chúa. Chiếc neo là dấu hiệu của sự cứu độ. Con người chấm dứt cuộc đời dương thế ở bến vĩnh cửu. Đối với người Kitô, cái chết không phải là một cánh chung mọi sự nhưng là một thay đổi sang một cuộc sống khác, cuộc sống đầy ân phúc. Chiếc neo cũng là biểu hiệu của thập giá nhưng kín đáo hơn.
3. Hầm mộ của các Đức Giáo Hoàng
Hầm mộ của các Đức Giáo Hoàng tại hang toại đạo thánh Callisto là nơi quan trong nhất cũng như là nơi được tôn kính nhất tại hang toại đạo này. Trong hang toại đạo này chôn xác 9 giáo hoàng và 8 vị trong hàng giáo phẩm thuộc thế kỷ thứ 3. Những hàng chữ ghi khắc danh tánh của các vị Giáo Hoàng đựoc lưu trữ tại hầm mộ, mặc dầu những hàng chữ này không còn toàn vẹn. Danh tánh của các ngài được ghi lại bằng tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ chính thức của Giáo Hội trong thế kỷ thứ 3. Trên bốn tấm bia mộ, bên cạnh danh tánh của các vị giáo hoàng, còn có ghi tước hiệu Giám Mục và trên 2 tấm còn có ghi tước hiệu Tử Đạo nữa. Những vị Giáo Hoàng này được gọi là những vị Giám Mục vì họ là những vị chủ chăn của giáo đoàn Roma. Những vị Giáo Hoàng cũng được gọi là những vị Tử Đạo để biểu lộ việc các ngài dùng máu đào làm chứng về đức tin Kitô cho đến chết chứ không chịu lỗi lời thề hứa với Thiên Chúa. Du khách có thể biết đến danh tánh của 8 vị Giáo Hoàng được khắc trên mộ bia như sau: 1) ĐGH Ponziano (230- 235) chết tại đảo Sardegna vào năm 235 sau khi bị án khổ sai trong các hầm mỏ. Di hài của ngài được chôn tại đây; 2) ĐGH Fabiano (236- 250) chết về đạo trong cuộc bách hại của hoàng đế Diocleziano năm 250; 3) ĐGH Eutichiano (275- 283) thuộc vùng Liguria; 4) ĐGH Luciano 1 (253- 254) vùng Roma; 5) ĐGH Antero (235- 236) người Hy Lạp qua đời sau 40 ngày làm giáo hoàng. Sau tấm bia lớn chôn mộ các giáo hoàng còn có mộ ĐGH Sisto 2 bị bắt quả tang khi đang cử hành nghi thức phụng vụ tại hang toại đạo thánh Callisto và bị chém đầu ngay tại chỗ. Tấm bia do ĐGH Damaso (366- 384) truyền ghi lại tấm bia lịch sử vào thế kỷ thứ 4 và đặt gần bên mộ ĐGH Sisto 2. Bài thơ này theo thể lục tiết Latinh có nói đến các vị tử đạo được chôn cất tại hầm mộ này vào thời ĐGH Damaso. Hầm mộ này được biến thành một nhà nguyện nhỏ trong lòng đất.
4. Hầm mộ thánh Cecilia
Tại chỗ có bức tượng thánh Cecilia, thi hài của thánh nữ Cecilia được chôn tại đây trong suốt 5 thế kỷ. Đầu thế kỷ thứ 9, ĐGH Pasquale 1 ra lệnh chuyển hài cốt của thánh nữ vào đền thờ dâng kính ngài tại khu vực Trastevere ở Roma. Du khách có thể nhìn thấy bức tượng của thánh nữ Cecilia. Đó là một bản sao của bức tượng nổi tiếng do Modereno tạc vào năm 1600 để đặt trên mộ của thánh nữ. Bức tượng này diễn tả thi hài thánh nữ khi được mở ra để thử nghiệm vào năm 1599. Dấu tích nơi cổ cho thấy rằng thánh nữ đã bị chặt đầu bằng gươm. Theo truyền thống, ba ngón của bàn tay phải và một ngón của bàn tay trái giơ thẳng biểu lộ đức tin của thánh nữ vào Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi Vị. Hầm mộ thánh nữ Cecilia được trang hoàng bằng nhiều bức tranh vẽ trên tường đã phai mờ theo thời gian. Hai bức trên tường phía trái cạnh tượng thánh nữ được vẽ theo kiểu Byzantine vào cuối thế kỷ thứ 8. Bức tranh vẽ tại hốc nhỏ là hình Chúa Kitô cầm sách Phúc Âm trong tay. Cạnh đó là mộ ĐGH Urano tử đạo cùng thời với thánh nữ Cecilia.
5. Các đường hầm
Các hang toại đạo được dào trong vùng đá ong, đất gốc nham thạch dễ đào nhưng khi chạm với khí trời thì trở nên cứng chắc. Hai bên dường hầm rắc rối là những hầm mộ hình chữ nhật để chôn những người qua đời. Thông thường thì mỗi hộc hoặc mỗi phần mộ chỉ chôn một xác mà thôi, nhưng đôi khi cũng có thể chôn nhiều xác hơn. Mộ của các tín hữu tiên khởi rất đơn sơ và nghèo nàn. Người chết được quấn trong tấm khăn liệm và đặt thẳng trong hộc mộ không có quan tài. Sau đó, người ta dùng vữa hoặc keo để gắn một tấm bia cẩm thạch hoặc một mảnh đất sét nung để lấp kín hộc mộ. Trên tấm bia mộ có thể ghi tên người quá cố, ngày chôn cất và vài dấu hiệu để chúc người chết được yên nghỉ trong bình an. Bên cạnh bia mộ thường có một đèn dầu và các bình hương đựng dầu thơm.
Ngày nay, các hộc mộ điều được mở ra và trống rỗng. Việc di chuyển hài cốt có hệ thống được thực hiện trong thời gian gần đây. Những mãnh xương được thu góp và đặt chung trong một hầm mộ các xương. Du khách có thể nhìn thấy các xương từ thế kỷ thứ 3 và 4. Việc mở các phần mộ làm thiệt hại hang toại đạo. Những hộc mộ ở tầng trên là những hộc mộ cổ kính hơn. Khi những hộc trên đã đầy, người ta tiếp tục đào sâu xuống dưới lòng đất để mở thêm các hộc mộ khác. Dọc theo đường hầm, du khách có thể nhìn thấy các hộc mộ nhỏ dành cho các hài nhi hoặc trẻ em. Tỷ số các hài nhi chết trong thời kỳ đó rất cao. Các Kitô hữu nhân ái chôn xác hài nhi bị người ngoại bỏ rơi trong nghĩa trang của họ.
Việc đào đường hầm do một nhóm Kitô hữu phụ trách. Họ không dùng lại các hầm hố đã dùng nhưng với cuốc xẻng họ kiên nhẫn đào các đường hầm mới dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu. Để vận chuyển đất đai được đào xới dưới các tầng hầm, họ dùng các túi vải hoặc thúng rổ. Một số người đào huyệt còn đảm nhận việc trang hoàng hoặc vẽ hai bên đường hầm hoặc trên các bia mộ. Việc đào bới hang toại lớn như hang toại đạo thánh Callisto kéo dài đến 300 năm, từ giữa thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4. Một số đường hầm khác được đào trong thái bình tôn giáo với hoàng đế Costantine năm 313. Trong toàn bộ hang toại đạo thánh Callisto có khoảng nữa triệu người được chôn cất.
6. Các phòng mộ Bí Tích
Có tất cả 5 phòng mộ Bí Tích. Trước đây những phòng mộ này thuộc các gia đình. Việc dành một phòng mộ riêng biệt cho những gia đình không phải là những đặc quyền dành cho những người giàu có nhưng lại là nguồn gốc của chính hang toại đạo. Hầu như tất cả những hang toại đạo đều được khởi đầu bằng khu đất được các gia đình giàu có dâng tặng sau khi trở lại đạo Kitô. Các gia đính Kitô giàu có này đã để dành các phần mộ và đất đai của gia đình để làm nghĩa trang chôn cất anh chị em đồng đạo. Sau khi trở lại đạo Kitô, họ cũng trả tự do cho những người nô lệ. Những người nô lệ cũng được chôn chung tại đây. Những người nô lệ sống với chủ cũng được chôn chung trong phần mộ của gia đình. Quan trọng nhất trong những phòng này là những bức tranh vẽ vào thế kỷ thứ 3. Các bức tranh này ám chỉ các Bí Tích Rửa Tội và Thánh Thể. Các tín hữu tiên khởi rất thích biểu tượng của hai bí tích nói trên. Họ muốn để lại cho những người còn lại sứ điệp về niềm tin của họ.
Họ đã được tái sinh trong Bí Tích Rửa Tội và được nuôi dưỡng bởi Bí Tích Thánh Thể cho đến giây phút sau cùng. Họ đã đi qua con đường này và rồi những người thân yêu của họ cũng sẽ đi qua như vậy. Họ mong đợi ngày đoàn tụ với gia đình sau này. Ngôn sứ Giona là hình ảnh thân thuộc với các tín hữu tiên khởi để làm biểu tượng cho lời Chúa Giêsu nói: “Như Giona đã ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào thì Con Người cũng sẽ bị chôn ba ngày ba đêm như vậy, rồi sẽ phục sinh”. Ngôn sứ Giona đã giảng đạo Tin Mừng Cứu Rỗi cho những người ngoại giáo thành Ninivê để cứu thoát họ. Những người tín hữu được chôn cất tại đây cũng đã được nhìn thấy lòng thương xót của Chúa đã ra tay cứu vớt họ khỏi tội lỗi. Ngoài ra, du khách còn thấy những bức vẽ diễn tả về bí tích Hôn Phối, Thêm Sức…
7. Khu vực mệnh danh thánh Minciade
Tại khu vực của những hầm mộ này được đào vào thế kỷ thứ 3, du khách có thể nhìn thấy cách thức đào mộ khác biệt với nhiều hầm mộ hơn cũng như với nhiều hầm mộ hình vòng cung ở ngay bên các phòng mộ hoặc dọc theo các đường hầm. Mộ phần hình cung là lối xây mộ đặc thù của thế kỷ thứ 3 trông khác lạ và đẹp mắt hơn các mộ khác. Nhìn vào ngôi mộ hình cung, du khách nhìn thấy tấm bia lấp mộ được đặt theo chiều ngang. Mộ phần hình cung có thể chôn cất một người hoặc cả gia đình. Rất nhiều mộ phần hình cung được trang hoàng bằng các bức vẽ được trích từ Kinh Thánh. Dọc theo đường thường có những lối đi trổ lên nóc hầm. Đây là những lối thông khí lớn rộng hình vuông trổ thẳng lên tận mặt đất. Suốt trong thời gian đào hầm, những lối thông khí này được dùng để vận chuyển đất đai ra khỏi đường hầm.
Sau khi đào xong, chúng được dùng làm những ống thông hơi dẫn khí và ánh sáng vào hầm mộ. Những ống dẫn khí này được đặt trên hầm mộ, các đường hầm hoặc các cầu thang dẫn vào các hang toại đạo. Vài hầm mộ còn có cả bàn thờ nhỏ để các linh mục có thể dâng lễ cho các nhóm tín hữu hành hương như các thế kỷ đầu của Kitô giáo. Người ta thường nghĩ rằng các hang toại đạo là nơi ẩn náo của các tín hữu Kitô trong thời kỳ bách hại đạo. Điều này không đúng hẳn. Hang toại đạo chỉ là nghĩa trang dưới lòng đất. Các nhà cầm quyền Roma biết rỏ về lịch sử các hang toại đạo. Luật lệ thời đó coi nghĩa trang là nơi thánh, mặc dù người quá cố thuộc về tôn giáo nào đi nữa.
Vào 3 thế kỷ đầu, các Kitô hữu không có thánh đường hoặc nơi phụng tự nào cả nên các buổi phụng vụ được tổ chức tại các nhà riêng. Tuy nhiên các buổi kinh nguyện và phụng vụ thường được tổ chức tại hang toại đạo. Các cuộc cử hành này được tổ chức tang lễ hoặc để tôn kính các vị tử đạo. Trong vài trường hợp đặc biệt, các tín hữu Kitô dùng hang toại đạo làm nơi tạm trú trong thời gian bách đạo dữ dội với mục đích tham dự thánh lễ mà thôi.
8. Những lời nhắc nhủ
Dọc theo hai bên đường hầm còn có nhiều bia mộ nguyên vẹn hoặc bị sức mẻ với nhiều chữ khác và nhiều lời chúc, nhất là chúc người quá cố được hưởng thiên đàng. Các tín hữu tin rằng những người thân yêu quá cố đang sống với Thiên Chúa. Họ đang sống trong bình an, họ đang chờ bạn hữu, thân thuộc nơi cuộc sống vĩnh cửu. Người đang sống mong người quá cố được an nghỉ trong Chúa Kitô, hãy sống với các linh hồn thánh thiện, hãy cầu nguyện cho gia đình… Dù họ đau khổ về sự chết nhưng họ tin tưởng vào lời của Chúa Giêsu: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ sống… Ai sống mà tin vào Ta thì sẽ không phải chết”. (Gioan 11,25- 26).
Càng vào sâu bên trong hang toại đạo, du khách có cảm tưởng như đi sâu vào mê cung tăm tối. Khí hậu khoảng 15 độ quanh năm. Du khách chỉ có thể đi thăm một phần nhỏ của hang toại đạo thánh Callisto. Tầng hai là tầng quan trọng nhất trong hầm mộ vì có những hầm mộ Giáo Hoàng và của thánh nữ Cecilia vì mang tính cách lịch sử trong thời gian bách đạo.
Chuyến viếng thăm hang toại đạo đem lại cho các tín hữu hành hương sự hiểu biết về cách thiết lập hang toại đạo, ý nghĩa của các hình vẽ trên mộ và trên tường, đức tin của các tín hữu thời sơ khởi, lịch sử của Giáo hội trong thời gian bị bách hại, hiệp thông giữa người chết và người sống… Tất cả nhắc nhở cho mọi người về ý nghĩa của cuộc sống vĩnh cửu bằng những ngôn ngữ chân thật, hình ảnh đơn sơ dễ hiểu. Danh xưng nghĩa trang có nghĩa là nơi yên nghỉ để chờ đợi cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu.
II. HANG TOẠI ĐẠO THÁNH SEBASTIANO
Bên cạnh đền thờ thánh Sebastiano (trước đây gọi là Vương Cung Thánh Đường Các Thánh Tông Đồ xây khoảng thời gian 310- 350, với chiều dài 58 thước 30 và chiều rộng 13 thước 50) là hang toại đạo thánh Sebastino với những di tích khảo cổ quan trọng của 3 thế kỷ đầu tiên. Vào giữa thế kỷ thứ hai xuất hiện một khoảng trống sâu khoảng 9 thước so với nền đền thờ bây giờ. Khoảng năm 258, một khoảng trống rộng khoảng 6 thước được coi là nơi kính nhớ hai thánh Phêrô và Phaolô được xây trên một phần mộ của thế kỷ thứ nhất dài khoang 23 thước và rộng khoảng 18 thước. Dưới cầu thang là nơi tắm rửa xác người quá cố. Tường được trang trí với những hình hoa, chim và thú vật. nhiều hình chữ viết nguyện xin với hai thánh Phêrô và Phaolô.
III. HANG TOẠI ĐẠO MOMITILLA
Nguyên thủy, hang toại đạo Domitilla gồm những nghĩa trang nhỏ nằm trên mảnh đất thuộc dòng họ Flavia Domitilla. Flavia là cháu của Flavio Clemente, Lãnh Sự năm 95, có liên hệ gián tiếp với hoàng gia. Sau khi trở lại đạo Kitô, Flavia bị lưu đày ở đảo Ponza và chết tại đó. Hang toại đạo này được khai triển thành 2 tầng, hai tầng khác gồm những đường hầm và những hộc mộ. Hang toại đạo này bắt đầu xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ 2.
Vào cuối thế kỷ thứ 3 và đầu thế kỷ thứ 4, hài cốt của hai thánh tử đạo Nereo và Achilleo được đặt vào tầng hầm thứ 3. ĐGH Damaso (366- 384) biến hang toại đạo thành một Vương Cung Thánh Đường nhỏ với chiều rộng 37 thước và chiều ngang 17 thước. Vào cuối thế kỷ thứ 4, đền thờ được xây trên chỗ nguyên thủy, tầng trên cao hơn mặt đất và sàn nền nhà thờ nằm trên mặt của tầng hầm thứ hai của hang toại đạo. Ánh sáng từ hai cửa sổ cao gần 4 thước chiếu vào. Do động đất sảy ra năm 897, đền nhà thờ bị phá hủy toàn bộ. Trong thời gian 1873- 1874, những khám phá về khảo cổ đào bới thêm và tìm ra được vết tích việc tôn kính thánh Petronilla tại hang toại đạo này với bức vẽ sau năm 356. Tại hang toại đạo này, du khách có thể thưởng thức bức vẽ trên tường vào thế kỷ thứ 4 Chúa Giêsu Thầy Dạy với các Tông Đồ. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành (Gioan 10, 1- 16). |
|